Chương 184: Hồi Ba Mươi Tám: Những dấu chân hoang qua miền Vạn Kiếp (a)
- Trang Chủ
- Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt - Tùy Tâm Sở Dục
- Chương 184: Hồi Ba Mươi Tám: Những dấu chân hoang qua miền Vạn Kiếp (a)
Nhà hàng ấy nằm trong một khu du lịch sinh thái, có sẵn phòng riêng dành cho công-ty cỡ trung tổ chức tiệc tùng – liên hoan nên vừa đủ ghế cho mọi người. Mỗi bàn tám ghế, vị chi là mười bàn, có hình dạng tròn gắn mặt kiếng xoay được; trong phòng gắn máy điều hòa nhiệt độ nên không bị lạnh hỗn như máy lạnh. Vì không quen không biết nên gia đình ông già quản trang ngồi dạt ở mé ngoài cửa, còn nhóm kia thì xếp bốn bàn “chụm lại” như xâu kẹo hồ lô để tiện bề nói chuyện và ăn uống chung; may phước cái đoàn của họ nhiều trai tráng khỏe mạnh nên mấy nhân viên không bị mất sức quá nhiều do khiêng bàn và chồng ghế dư.
Hoàng Oanh đang ca bài “Mưa trên tượng đá” của chồng cô, tức nhạc sĩ Mai Châu – trong bài này ông ký tên là “Chiêu Anh”, với sự phụ họa của tam ca Mộc – Kim – Châu (Mộc Lan, Kim Tước và Châu Hà). Đợi cho màn trình bày của “Chim vàng Mỹ Tho” kết thúc, Sáu Quới mới chịu cho tắt nhạc; chú tự giác biết mình mà đòi nghe thêm bài nữa là sẽ diễn tuồng “Chén cơm chan máu” với ông Cha Cọp liền.
Ban đầu gia đình ông quản trang sợ bị gài nên không dám chọn món, chừng nghe Thanh Liên nói sẽ trả tiền trước – họ mới mạnh dạn giở thực đơn mà kêu đồ ăn – thức uống.
Vì Thanh Liên không có ăn, chỉ uống nước suối, nên anh ngồi riêng ở cuối dãy bàn, chỗ mà lưng ghế dựa sát vào tường, đi lại khá bất tiện. Đáng ra anh đã ra ngoài xe tọa thiền nhưng bị Y-Nhã Cường níu lại mà mời anh vô ngồi chơi cho vui. Ignacio Cường ngồi cạnh anh ở mé tay mặt, còn má anh là ở mé tay trái, đối diện với anh là Kiều Xuân và Quế Trân.
Trong lúc đợi bồi dọn bàn, Ignacio Cường ngỏ ý muốn Thanh Liên nói về một chủ đề nào đó hay hay. Thanh Liên nhờ má chọn giúp chủ bề, Cận-Sự Nữ Ly Ái liền vô đề luôn mà không rào một lời nào:
– Thử coi tập phim 69 và 70 của bộ “Mahabhratham 1” là sẽ thấy được tài diễn xuất của các diễn viên, cũng như sự phân vai thiệt hay của ông đạo diễn.
– Thầy Thanh, cứu bồ Thầy ơi!
Vậy là Thanh Liên phải đọc từng chữ cái để hai cô gõ trên thanh tìm kiếm của Google. Nghe chàng Tăng sĩ có nốt chu sa giữa hai đầu chân mày phát âm mà nhóm anh em Công Giáo tưởng đâu đang coi “Harry Potter”.
Khắc Xương và Sáu Quới cũng mở máy coi thử. Công nhận diễn viên tuyến chánh đẹp trai thiệt.
Khắc Xương vừa coi vừa bình phẩm chuyện khác:
– Chân Tử Đan đóng vai Kiều Phong. Trời ơi cái mặt, cái tướng đó mà đảm nhận vai đại hiệp Khiết Đan.
Y-Nhã Cường nhíu mày mà nhếch miệng cười hỏi:
– Sao lại gọi là “Chân Tử Đan”?
Khắc Xương giả giọng lồng tiếng phim kiếm hiệp xứ cảng thơm:
– Hồi ở Hường Công là “Chung Tử Đơn”, nhưng nay về Tàu thì nên kêu là “Chân Tử Đan” đó mà.
Nguyên đoàn phá lên cười đã đời.
Quế Trân hỏi Thanh Liên:
– Người giả gái này là ai vậy Thầy?
– Người giả gái này có tên là Arjuna. Theo sử Ấn Giáo thì Chúa Vishnu giúp Dharmaputra lên ngôi vua – Lúc này Ngài Narayana lấy thân phận Chiến thần Krishna, và Arjuna xuất hiện với vai trò là dũng sĩ phò tá minh quân và là tri âm tri kỷ với Ngài Narayana.
Quế Trân che miệng cười khúc khích:
– Diễn nhập tâm quá nên tôi tưởng ông này với Chúa Vishnu yêu nhau thắm thiết.
Bà Ái Liên vỗ lưng con nhỏ Tư Lành:
– Nhờ đóng bộ phim này mà hai người đã trở thành tri âm tri kỷ đó bây.
Khắc Xương nhận xét:
– Phim Ấn Độ chỉ cần cải thiện kỹ xảo, cách dựng phông nền và cắt bớt những cảnh phim quay chậm thừa thãi mà thôi. Cách diễn xuất và phân vai bên xứ họ đã rất tốt rồi.
Quế Trân gật gù:
– Phải, diễn viên người ta vừa có sắc vừa có tài, ác ra ác, đểu ra đểu, ngờ nghệch ra ngờ nghệch.
Bà Ái Liên thêm:
– Thành ra dẫu có nhiều cảnh quay chậm nhưng người ta vẫn chấp nhận được, vì phần đông cảnh quay chậm đều dành cho người có nhan sắc, còn những người kém hơn thì quay bình thường.
Nhân viên dọn lên món khai vị nên ngoại trừ Thanh Liên, ai cũng gắp vài đũa lót dạ cho đỡ đói.
Vừa che miệng nhai, bà Ái Liên vừa nói vui:
– Đóng phim này xong, cái cậu đóng vai Chúa Vishnu “lên bàn thờ” luôn.
Nhóm anh em Công Giáo ngạc nhiên đến nỗi thi nhau hỏi căn cớ của sự việc trên.
Bà Ái Liên cười ngoẻn ngoẻn:
– Tức là cứ hễ có gì liên quan đến Chúa Vishnu là người ta lại đưa hình cậu này vô làm ảnh minh họa. Với cái cậu đóng vai Chúa Shiva nữa, cũng bị y chang vậy.
Lại một lần nữa, ngoại trừ Thanh Liên, người nào người nấy đều cười ồ lên trông rất vui vẻ và thích thú.
Quế Trân hỏi:
– Ai cầm chùy trong tập 71 vậy cô?
– Thần Balarama đó con.
– Đẹp trai quá cô!
– Ông hay sử dụng nông cụ để chiến đấu và gia tăng sức mạnh.
– Vậy chắc Thần này là Thần Nông.
Thanh Liên giải thích rõ hơn:
– Phải. Thần này là biến thân của Vua Rắn Adhi Sesha, một trong những linh thú hầu cận Chúa Vishnu; trong đời này là anh của Krishna, mà Krishna lại là biến thân thứ bảy của Ngài Narayan. Theo quan điểm của Ấn Độ Giáo, Đức Phật là biến thân thứ tám.
Henrico Thạnh không sợ chết mà bẹo gan Y-Nhã Cường:
– Cường, cái mặt của anh lúc quạu sao là giống y cha diễn viên này vậy đó.
Ignacio Cường mời Thanh Liên nói thêm về Chiến thần Krishna.
– Cách chào đời của Krishna có đôi nét giống với Chúa Jesus, tức là lúc mà Ngài ấy chào đời thì những đứa trẻ trạc trạc tuổi Ngài ấy và bà bầu trong vùng đều bị sát hại hết ráo, vì Kamsa là một bạo chúa. Hắn ta tin vào lời tiên tri rằng sẽ có một đứa bé trai trong dòng tộc sẽ tiêu diệt vương triều độc ác của mình. Do đó, sau khi lời tiên tri đã bị giải mã, cha – mẹ trần thế của Ngài Narayan đã bị Kamsa cầm tù; nhưng thay vì giết luôn, hắn ta lại để cho người mẹ đẻ xong đứa con mới ra tay giết nguyên gia đình hòng thỏa mãn sự hả hê và coi đây là một nghi thức ăn mừng thắng cuộc. Chúa Shiva đoán được ý định của Kamsa nên đúng ngày lâm bồn của cô gái đó, Ngài Mahadev đã làm cho dòng chảy thời gian ngưng đọng, rồi giúp cho mầm mống của người bạn Tối Cao đầu thai vô nhà một đôi vợ chồng chăn bò sống ở ngoại thành, còn cha – mẹ trần thế trong lời tiên tri thì sanh ra đứa con mang mầm mống của Ngài ấy. Xong xuôi hết thảy, Ngài Mahadev mới cho thời gian chuyển động như cũ. Vạn vật vừa trở lại như bình thường, Kamsa đã vào nhà lao cướp lấy đứa trẻ mà quăng xuống mặt đất mấy lần; khi hắn vừa vung kiếm lên định chặt đầu cha mẹ đứa trẻ, bỗng nhiên cái xác của đứa trẻ rực sáng, một Nữ Thần sáu tay cầm binh khí đứng choáng trước mặt cha mẹ trần thế của mình mà dùng phép xô té Kamsa và hất văng thanh kiếm ra xa. Kamsa hiểu hai vị Chúa đã cho mình một cơ hội nên không dám sát hại đôi vợ chồng đó nữa và trả tự do cho họ, cũng như ngừng lịnh thảm sát bà bầu và trẻ nhỏ. Nhưng chứng nào tật nấy, sau nhiều năm tu tâm dưỡng tánh, Kamsa ngựa quen đường cũ và coi mòi còn ác hơn xưa rất nhiều.
Trên đây là một trong những dị bản về Chiến Thần Krishna. Phim này nói về một dị bản khác rất nhiều so với dị bản mà tôi đã kể.
Y-Nhã Cường hỏi:
– Còn trong phim thì sao?
– Phim này thì nửa khúc đầu gần giống như tôi kể, nhưng khúc sau khác hoàn toàn:
Người ngưng đọng thời gian là Chúa Vishnu. Sau khi người mẹ trần thế hạ sanh Krishna, Ngài đã làm cho thời gian ngưng đọng đặng cho người cha trần thế của Krishna vượt biển tới một vùng quê hẻo lánh nọ để đổi Krishna với đứa bé gái mới sanh của một đôi vợ chồng chăn bò. Xong xuôi hết thảy, người cha trần thế của Krishna bồng đứa bé gái quay về nhà tù. Ngay khi ông vừa bước vô ngục giam, thời gian liền chuyển động như cũ. Và đứa bé gái đã chết thay cho Krishna như thế đó. Song cũng như bao dị bản khác, đứa bé gái được cho là Nữ Thần giáng trần trong đôi lát nhằm cứu lấy xác phàm của Krishna, thành ra đứa bé gái không chết mà chỉ là lìa xác phàm của mình và trở về Trời mà thôi.
Louis Quế hỏi:
– Vậy ra Thần Balarama là…
– Thần Balarama là đứa cháu trai mà Chúa Quỷ Kamsa đã giết hụt. Đời này ông là anh ruột của Chúa Vishnu.
Rồi Thanh Liên kể tiếp:
– Một chi tiết nữa cũng khá giống bên Cơ Đốc Giáo, là Ngài Narayan đã giúp loài người thoát khỏi đại hồng thủy bằng cách báo cho tổ tiên của loài người, theo quan điểm bên Đạo họ, là Tổ Phụ Manu biết mà đóng sẵn thuyền cứu vớt họ; về phần mình, Ngài hóa thành Thần Ngư Matsya hộ tống chiếc thuyền do Manu điều khiển để đến được vùng đất hứa.
Lần thứ hai cứu Trái Đất khỏi nạn Đại Hồng Thủy, Ngài Narayana đã hóa thân thành Thần Varaha đầu heo rừng – mình người.
Henrico Thạnh tiếp:
– Vậy là rất có thể trước thời điểm Thiên Chúa Giáng Sinh đã xảy ra một trận đại hồng thủy khủng khiếp. Vì bên Thần thoại Hy Lạp thì Thần Zeus đã trừng trị loài người bằng một trận nước dâng khiếp vía.
Khắc Xương thêm:
– Và một vài tài liệu Phật Giáo cũng cho rằng đã từng có trận đại hồng thủy thanh tẩy thế giới.
Trước cái nhíu mày khó chịu của JB Khải, Thanh Liên mỉm miệng cười mà rằng:
– Tụi không có ý định “Hòa đồng tôn giáo” đâu, chỉ là muốn tìm hiểu lịch sử thành hình của Trái Đất mà thôi. Trong lúc tìm hiểu, bỗng vô tình kiếm được những điểm chung vô cùng khó hiểu và khó giải thích.
Ignacio Cường cắt ngang mà hỏi:
– Anh có tin nào thú vị về đoàn diễn viên này không Liên?
– Một điều rất thú vị là Saurahb theo Phật Giáo chứ không phải Ấn Độ Giáo. Và đức tin này do anh ta tự chọn và không hề bị ai dẫn dắt hay định hướng. Vốn dĩ xuất thân từ gia đình Hindu mà đến tuổi dậy thì lại đi theo tôn giáo khác.
– Vậy mà anh ta lại không đóng phim về Phật Giáo?
– Khuôn mặt anh ta quá đẹp và phong lưu nên không hạp đóng phim Phật Giáo đâu.
Stephen Đoàn hỏi:
– Bữa trước anh nói vợ của anh này là con gái triệu phú hả?
– Phải, và đó chỉ là tin đồn thôi, vì cô này không để lộ danh tính thân nhân ra.
– Vậy sao đồn vậy?
– Vì không có lý nào mà cổ lại có thể che giấu nhân thân của mình một cách kín bưng dễ dàng như vậy được; trừ khi gia đình của cổ có thế lực và tiền bạc lớn tới mức độ bịt được hết miệng của giới săn tin trong làng giải trí.
– À, cũng thuyết phục hen.
– Duy chỉ có một sự thật chắc chắn là hai vợ chồng rất giỏi về lãnh vực Công Nghệ – Thông Tin, Kinh Doanh và Truyền Thông.
JB Khải hỏi:
– Vậy là anh ta cải Đạo?
– Phải. Và cũng như bao nhiêu người Ấn Độ khác, bên vợ cũng theo Ấn Độ Giáo.
Quế Trân trầm trồ:
– Vậy mà anh ta lại hóa thân thành Chúa Vishnu hết sức xuất sắc.
Thanh Liên bình phẩm:
– Đức tin mà bị ép buộc theo gia đình thì sao mà bền được? Vì đó là nhồi sọ chớ đâu phải họ thiệt lòng với đức tin.
Quế Trân hỏi bà Ái Liên về tên của ca khúc mở đầu của bộ phim này. Và Cận-Sự Nữ Ly-Ái trả lời như sau:
– “Hai Katha Sangram Ki – Mahabharat Title song”, ca khúc mở đầu của bộ phim này, cũng là một đoạn tóm lược về nội dung phim. Theo thiển ý của tôi thì tiếng Malayalam thể hiện bầu không khí oai hùng của nhạc phẩm này rõ rệt nhứt. Ban hợp ca là nhóm diễn viên đóng vai tướng lãnh Thiện – Ác và Phản Gián.
Louis Quế bình phẩm:
– Bữa hổm coi một phim cổ trang, mèn đét ơi, tướng quân mà mặt y chang tướng cướp!
Những người tại thế đều biết ông Sáu Tửng nhắc tới ai nên cười quá xá cười.
Thanh Liên kể:
– Karna lại là anh hùng được nhiều người ngưỡng mộ nhứt, chứ không phải là Arjuna. Vì người ta cho rằng Arjuna có Chiến Thần Krishna “chống lưng”, còn Karna đơn thương độc mã mà giành lấy thắng lợi và vinh quang cho mình. Nhưng bởi vì Karna chọn phe Ác, người tài phò tá phe Ác là mầm mống nguy hiểm cho nhân loại nên Chúa Vishnu phải tiêu diệt anh ta bằng mọi cách – kể cả chơi xấu như đánh lén.
Bà Ái Liên thêm:
– Người đóng vai Arjuna theo Đạo Hồi.
Sau đó, người Cư sĩ còn lấm bụi trần nói với giọng điệu trầm trầm:
– Thành ra đừng có kể lể mình diễn xuất cực khổ hay bao biện rằng mình chưa từng gặp hoàn cảnh đó nên không biết cách biểu đạt cảm xúc và hành động của nhân vật, Saurabh và Shaheer đâu có theo Ấn Độ Giáo mà vẫn đóng tròn vai nhân vật thuộc thế giới tín ngưỡng Hindu đó thôi.
Quế Trân vừa rót thêm nước ngọt “Sunkist” mùi khóm vào ly của cô vừa hỏi bà Ái Liên:
– Anh “Sao-sao” gì đó cao nhiêu mét vậy cô?
– À, Saubrah hả? 1m91, còn cô vợ chỉ có 1m57 hay 58 thôi.
– Trời đất ơi! – Khắc Xương và Huỳnh Quới thảng thốt kêu lên.
Bà Ái Liên nói lảng:
– Phim này diễn viên nam chỉ cần để tóc dài là xong. Khỏi cần tốn công uốn tóc gì sất. Vì dân Ấn Độ vốn có gene tóc quăn mà.
Thanh Liên được một ông lão mời vào phòng riêng uống trà – đàm đạo. Trước lúc theo chân ông lão vô nhà, anh chắp tay mà nói lời xin kiếu.
Ở ngoài này, nguyên bàn quây quần bên nồi lẩu và các món ăn ngon khác. Gia đình người quản trang đã lâu không được đi ăn tiệm mà lại nghe được bao bụng nên ăn uống không khách sáo chi sất, muốn ăn gì kêu nấy, người ta mời là lấy liền luôn. Nhưng vì đi đông, và cũng để gia đình người quản trang không bị lúng túng, đôi bên chia làm hai bàn riêng biệt và cách nhau một cái lối đi. Nói lại một lần nữa để thấy rõ cảnh huống rằng từ đầu đến cuối hai bên chưa ai nói với ai một tiếng nào hết.
Ignacio Cường ngần ngại hỏi bà Ái Liên:
– Con có thể được biết nguyên nhân nào mà má con cô giàu dữ vậy hôn?
Bà Ái Liên bật cười, rồi vừa vặn nhỏ bếp gas của nồi lẩu vừa cười đáp:
– Cô có hai căn nhà bên Mỹ, cho người ta mướn cả hai căn nên mới khá giả như con thấy. Ngoài ra, cô còn mua trái phiếu Hoa Kỳ và một số cổ phiếu của công-ty bên bển nữa.
– Có phải là nhờ Thanh Liên đi làm ở bển nên cô mới có tiền mua phải không?
– Phải. Sau khi trả dứt nợ nhà băng, tích cóp được số tiền kha khá để cô xây nhà ở đây và dưỡng già, nó trở lại Thất Sơn ẩn tu luôn tới giờ.
JB Khải thắc mắc:
– Nhưng, tính ra anh ở bển có mấy năm thì làm sao mà mua được những hai căn hả cô?
Bà Ái Liên lại bật cười:
– Nó trúng đậm cổ phiếu. Rồi lấy tiền thuê nhà căn này mà mua thêm căn khác; nó mua bên Texas chứ đâu phải California. Ngoài ra, bên bển nó còn làm gia sư luyện thi cho con nhà giàu nữa, nên tiền vô túi lẹ lắm. Cạy cục, cạy cục không dám ăn – không dám ngủ hơn sáu năm trời mới kiếm được cả gia tài như vậy.
Louis Quế bình phẩm với giọng buồn hiu:
– Coi như là cẩu đã trả Hiếu cho chị hết rồi.
Bà Ái Liên gật đầu. Rồi ngó về phía mấy đứa trạc trạc tuổi con mình mà tâm sự với giọng rầu rầu:
– Cô đâu có muốn nó đi tu.
Ai nấy nín thinh mà đợi nghe bà cư sĩ Ly Ái trình bày.
– Vì tiếp xúc với quá nhiều người mắc bịnh tâm thần nên nó quy y cửa Phật luôn, nó nói trần gian là bể khổ, còn ở lại là còn khổ, nên nó quyết định buông bỏ hết để dứt khổ… Nếu mấy đứa gặp nó hồi nó mới ba mươi, cái mặt nó không được tươi tỉnh như bây giờ đâu, suốt ngày chù ụ bởi đủ thứ nguyên nhân trên đời.
Bữa ăn này là do nó trả, chớ hổng phải cô đâu. Nhiều người không biết nói nó lớn đầu bỏ cha bỏ mẹ đi tu, giờ quay lại ăn bám bà già, kỳ thực là cô ăn bám nó chớ nó đâu có ăn bám cô.
Sáu Quới hỏi lảng sang chuyện khác:
– Cẩu mua lâu rồi, chắc giờ nhà lên giá dữ lắm hả chị?
– Hồi trước nó mua hai căn có ba trăm hà, giờ mỗi căn lên tới sáu trăm rồi, bán liền là bỏ túi ít nhứt cũng khoảng đó.
Rồi trong một niềm hãnh diện vô bờ bến, bà Ái Liên khoe rằng:
– Nói chung, nếu nguyên một băng tụi nó không đi tu, là đứa nào đứa nấy đều thành đạt hết. Chẳng qua, tụi nó theo gương Ma-Ha Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên,… mà thôi.
Không biết Thanh Liên đã nói cái gì với ông lão mà hai nhóm được bớt mười lăm phần trăm trên tổng hóa đơn. Ông lão nói nhờ anh mà ông đã thanh thản sống tiếp rồi; vì anh không muốn cất hay sửa chùa, cũng chẳng nhận lạc quyên, nên ông chỉ còn nước biểu con cháu giảm giá mà thôi.
Vừa ký tên lên tờ hóa đơn bên mình, Thanh Liên vừa nói:
– Trong sử thi Mahabharatham có một câu nói đã khiến tôi suy nghĩ suốt: “Nếu bạn không dám chiến đấu vì thứ bạn muốn, thì cũng đừng có khóc khi đánh mất nó.”
Trước lúc lên đường tới homestay do một người bạn quen của Khắc Xương mở, Kiều Xuân và Stephen Đoàn ra thăm mộ bà Catarina Ánh Sương.
– Công nhận cô với em giống nhau thiệt.
Stephen Đoàn gật đầu:
– Đôi mắt lạc thần và u buồn muôn thuở vì nặng gánh luân thường.
Kiều Xuân bật cười:
– “Nặng gánh luân thường” là sao? Em tưởng là đều bị bịnh mạn tính như nhau chớ?
Nhưng Stephen Đoàn không giải thích, người Linh mục đọa lạc ấy chỉ giục “Nửa mảnh trời Xuân” mau trở ra xe. Nghĩa trang đã vắng bặt ráng chiều, ở đây chỉ có lác đác vài cây đèn vàng lập lòe sáng, đã thế cỏ cây um tùm nên nhìn càng ghê rợn tợn.
– … “Đừng bỏ Em một mình
Trời đất đang làm kinh
Rừng xa quằn quại gió
Thu buốt vết hồ tinh…”
Stephen Đoàn ngậm mà nghe Kiều Xuân diễn ngâm bài thơ “Đừng bỏ Em một mình” của nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh, mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ thành một tác phẩm hết sức thê lương và ma mị, và các cô Thanh Lan và Lệ Thu đã làm nó trở nên diễm ảo và liêu trai hơn (riêng phần trình bày của song ca Hoàng Oanh – Nhật Trường lại biến nó mang âm hưởng ray rứt, khoắc khoải dị kỳ).
– Sao mà bà Minh Đức toàn sáng tác những thi phẩm theo kiểu “Triết học Hiện Sinh” vậy anh?
– Có lẽ là bởi thời cuộc và sự ra đi đột ngột của người thân.
Kiều Xuân khẽ “À” một tiếng.
Chiếc xe “Range Rover – Sport” và “Chevrolet – Suburban” đã đậu chỗ khác, dưới bóng cây phượng trơ trụi vì Hè chưa tới, không thấy ai trong xóm Đạo lại hỏi thăm họ nữa.
Kiều Xuân lên xe của Khắc Xương, còn Stephen Đoàn thì lên xe của các anh em Công Giáo. Mỗi chiếc xe gắn máy phân khối lớn để ở một cái xe hơi, do bề dài mỗi chiếc xe gắn máy xê xích chiều rộng của cái xe chở nó nên phải dựng xeo xéo như tháp nghiêng Pisa; và nhằm bảo đảm an toàn, trước khi đưa chúng lên xe mà ràng lại thật chặt, xe nào cũng hút hết xăng. Vừa giúp ông Sáu gấp lại băng chót cho rộng chỗ dựng xe, JB Khải vừa càm ràm trong họng vì mới ăn no tức bụng mà phải khom lên khom xuống làm mắc ói muốn chết.
– May cho mấy người đó. Băng nhì tới ba chỗ nên không ai phải lên nóc xe ngồi.
Y-Nhã Cường nhếch miệng cười:
– Mốt hai người nhớ mua chiếc xe dài hơn chiếc xuồng ba lá nha?
Sáu Quới gom chút sức lực mà bà vợ chưa vắt hết mà phồng mang trợn má dựng lưng ghế của băng nhì sao cho thật thẳng, nhằm tạo thêm chỗ trống để chiếc xe gắn máy phân khối lớn của JB Khải.
– Mệt thì đừng có ráng quá chú Sáu. Để tôi qua phụ một tay cho. – Khắc Xương vừa nói vừa đóng cốp-xe một cái rầm, làm Quế Trân hú hồn hú vía mà la bài hãi thấy thương.
– Trời ơi, nó đợi tôi làm xong rồi mới nhảy qua giúp!
Khắc Xương gãi đầu cười hề hề, làm cái bụng mỡ của anh cũng rung rinh theo.
Căn homestay mà Khắc Xương chọn nằm gần chùa Phật Ngọc – Xá Lợi, trong một cái xóm lao động bình dân và dầu mưa sa – bão táp – dông lốc – biển động cỡ nào vẫn có người tận tụy hát karaoke cho chúng sanh nghe; nhờ ơn phước tụng bài “Tình Anh bán chiếu” của một ông trong xóm mà đã có một gia đình cuốn chiếu đi mướn chỗ khác ở luôn, chứ ngày nào ổng cũng “cắm sào” ai mà chịu cho nổi? Lại thêm một nhà nữa, bữa nào cũng ca bài “Chiều Tây Đô”, ngày nào cũng “giải phóng”, giải phóng sao hay quá mà ông kia bị nói ngược luôn nên ổng phải làm tráng sĩ Kinh Kha một đi không trở lại.
Quế Trân ngước nhìn ngôi nhà lầu bốn tầng cao mỏi cổ một đỗi, rồi huých vai chàng mập mà rằng:
– Ê, ông, bộ ông ghiền phim hoạt hình “Sing” lắm hay sao mà chui vô cái xóm ca tối – ngày này vậy?
Khắc Xương rùn vai phân bua:
– Đâu có biết đâu cô. Với lại gấp quá nó chọn nhà khác hổng kịp.
Ignacio Cường chép miệng bình phẩm:
– Tưởng đâu lạc vô phim Ấn Độ.
– Ôi thần linh ơi… – Sáu Quới diễn lại y chang bức tranh “Tiếng thét” của danh họa Edvard Munch.
Y-Nhã Cường không niệm mình mà xán vô lưng Sáu Quới một cái bốp:
– Gì nữa ông Sáu?
– Nhà này mới cho người ta đóng phim “Conjuring” hả? Sao mà sân thì hoang tàn, đèn trong nhà tranh tối tranh sáng, cửa nẻo thì nhện giăng đầy… Trời ơi, mày dẫn tao vô đâu vậy mập?
Quế Trân sẵn tánh sợ ma nên đứng chùm nhum với bà Ái Liên và con nhỏ bồ.
Khắc Xương lại phân bua:
– Nhưng mà sân rất rộng, đủ để ba cái xe vận tải luôn chứ đừng nói chi hai chiếc xe…
– Ờ, nếu làm đám chắc đãi được cả ngàn khách. Vô đây ở đêm nay hổng biết sáng mơi còn sống không?
Khắc Xương cười phá lên:
– Ông có năm đứa con, ông còn nuối tiếc chi nữa ông nội?
– Còn vợ tao chi mậy?
– Thì để thằng khác nó lo giùm cho.
– Vô ở đi. Mệt quá! Sáng mai kiếm nhà khác ở.
Một lời của Y-Nhã Cường tuôn ra không khác nào “Cập Thời Vũ” Tống Giang, nhóm anh em Công Giáo của chàng liền răm rắp nghe lịnh.
Ignacio Cường và Thanh Liên thản nhiên mở cửa bước vô.
Bên trong chỉ được quét dọn qua loa, màn cửa bám bụi đến nỗi không dòm ra màu nguyên thủy của nó, đồ đạc tương đối sạch và ngăn nắp; nhìn chung miễn cưỡng chấp nhận được. Vì sàn nhà khá dơ, vả lại cũng không muốn bị ngứa chân, nên ai có mang giày – dép đều không muốn cởi ra; Thanh Liên được má thảy cho đôi dép xỏ ngón bán “xô” ở một sạp vỉa hè, chú chắp tay mà cúi đầu cảm ơn má đàng hoàng rồi mới mang vô.
– Ôi, công đức vô lượng! Cái bếp nó chùi kỹ còn hơn cái mặt nó nữa.
Henrico Thạnh bỡn:
– Chắc mần sạch cái bếp để anh có chỗ bỏ bụng đặng có sức dọn nhà ấy mà.
– Chắc vậy rồi. – Sáu Quới đơm vô.
Tủ lạnh không có mùi ẩm mốc hay hăng hắc. Cửa trên tủ lạnh có dán tờ giấy thông báo rằng cái tủ lạnh này thường xuyên được làm sạch nên cứ tự nhiên bỏ đồ vô trong trỏng.
– Nó dọn nhà mà cũng có “chọn lọc” nữa.
Chỉ có nhà bếp, cầu tiêu – nhà tắm và phòng ngủ là sạch sẽ. Còn lại những khu vực khác vẫn “hoang phế khi đã gặp nhau”. Coi như thằng bạn của chàng mập cũng còn sót lại chút ít lương tâm.
– Nè mấy Thầy… – Bà Ái Liên vừa gọi giựt lại vừa đặt cái va-li lên bàn.
Mọi người vây quanh coi bà cư sĩ mở va-li. Ngoại trừ con trai bà ra, ai nấy thảy đều ngạc nhiên vì bên trong va-li là những chai nước xịt phòng được quấn trong giấy xốp và mút nylon. Đếm sơ thì thấy mười hai chai, mỗi chai một mùi, đều cùng một nhãn hàng nhưng khác cách phân loại mà thôi.
Nhóm Giáo sĩ Cơ Đốc chọn chai “Febreze Air Mist (Lenor) – Ocean Escape”. Chàng mập Luật gia thì lấy “Febreze Air Mist (Lenor) – Vanilla Cookie”. Còn ba người đẹp Nam Kỳ thì ưng mùi “Febreze Air – Ember: Mandarin, Amber and Lava”. Riêng chàng Tăng sĩ khôi ngô không chịu loại nào.
– Ông ú nu bà nù mà còn chọn mùi bánh ngọt nữa.
– Chỗ cô có nhiều chai mùi bánh lắm, có thích thì mốt về trển nhớ ghé nhà cô lấy nghe?
– Kệ tui, bà ốm nhom bà ròm ở đó mà hổng lo.
Trong lúc Quế Trân và Khắc Xương đang cự cãi nhau, điện thoại của Kiều Xuân đột ngột đổ chuông; nàng không nói không rằng mà lại mở cửa hậu rồi đi một hơi ra sau hè.
– Dòm cái gì mà dòm? Cái thân chưa khỏe mà cứ tắm khuya hoài.
Stephen Đoàn nhếch môi cười mà vỗ vỗ vai người bạn thiết. Đoạn quải ba-lô và xách hành lý lên phòng ngủ ở lầu Một.
Ở đây có ba nhà tắm nên mọi người đỡ mất công chờ đợi. Dù muốn dù không, Thanh Liên vẫn phải tắm với sữa tắm có mùi hương để tẩy uế bụi đường và mùi tiệc tùng dầu mỡ; ở trển, anh tắm với nước lá bưởi, hương nhu và một số loại thảo mộc sát khuẩn khác, do biết cách sao chế nên mặc dầu không xài sữa tắm hay dầu gội mà mùi cơ thể của anh vẫn thơm tho như thường.
Trở lại với chuyện của Kiều Xuân, hiện cô đang ngồi trên cây dừa quéo có phần thân rạp xuống con rạch đen kịt. Sợ mình sẽ biến thành “Thiện nữ u hồn” trong mắt ai đó, cô vấn tóc cao gọn gàng và không để ánh sáng của màn hình điện thoại hắt vào gương mặt trắng tươi của mình.
– Tại sao người yêu của anh…
Martin Cảnh nói một cách mập mờ:
– “Mắc nghẹn”. Không lấy ra kịp nên chết. Thành thử phải mổ bụng.
Vậy ra người yêu cũ của Martin Cảnh làm nghề giao ma túy và thuốc lắc, không biết thiếu tiền cỡ nào mà lại dám nuốt một tép heroine vô bụng để đến nông nỗi vong mạng.
– Xuân.
Kiều Xuân cúp máy ngang xương rồi ngẩng lên nhìn người ấy mà gọi:
– Anh Mỹ.
Stephen Đoàn đưa cái mền lông cừu cho Kiều Xuân khoác. Đây là món quà của một người Giáo dân đã tặng cho anh, sau khi người đó trở về từ chuyến du lịch Mông Cổ. Cái mền vừa mỏng lại ấm, hễ mà trời đổ lạnh ngủ ngon thôi rồi.
– Anh vẫn phải dính líu tới Chiên…
Stephen Đoàn cúi mặt cười buồn.
Đôi bên chưa kịp nói với nhau lời nào thì đã nghe tiếng dép ai loẹt quẹt bước ra ngoài này. Hóa ra là Quế Trân và Khắc Xương, nàng kẹp nách cái rổ mủ còn chàng thì xách cái giỏ đệm và hai cây kéo làm vườn.
– Ra đây chi vậy hai người? – Kiều Xuân cười gượng.
Quế Trân hấp háy mắt:
– Hái bưởi với ổi ăn, bồ.
Stephen Đoàn hỏi trong một điệu cười méo xệch:
– Người ta cho hả?
Khắc Xương gật đầu cái rụp.
Viện cớ chưa tắm rửa gì nên Kiều Xuân xin phép vô nhà trước. Cũng mượn cớ phải phụ anh em dọn chỗ ngủ nên Ngọc Mỹ đi theo Kiều Xuân luôn.
– Tội nghiệp hai người đó quá ông.
– Tôi thấy mắc mệt hơn là tội nghiệp.
Quế Trân vạch mí mắt mà lè lưỡi ghẹo chàng mập:
– Mập mỡ nhiều nên máu lạnh theo.
Khắc Xương nhếch miệng cười:
– Làm mặt thấy ghê đi rồi lát thấy nguyên con y như mình.
– Đừng có hù tui chớ ông! Quỷ hà!
Thấy đã hơn mười một giờ nên Khắc Xương quyết định kết thúc cuộc tranh luận với bà mắm xứ dừa. Anh hối con nhỏ mau đi bẻ ổi và hái bưởi để ăn tiêu thực, không quên cằn nhằn con nhỏ vài câu vui vui.
Ở trên này, Ignacio Cường đang xách va-li qua phòng của Thanh Liên. Phòng của Thanh Liên nằm kế bên cầu thang, nhưng cách một khoảng hành lang để người ở trong phòng ra – vô thuận tiện và an toàn hơn.
– Tôi qua ngủ với anh được không?
– Sadhu.
Ignacio Cường đem theo chai xịt phòng “Febreze Air – Mountain: Alpine, Wildflower and Cedar”. Anh xịt ba lần theo kiểu tưới ruộng, nên cả gian phòng đều ngập trong làn hương nhân tạo.
Thanh Liên bình phẩm:
– Mùi này không mang hương vị Thất Sơn huyền bí, mà là núi rừng Âu Châu lãng đãng thông reo với suối nguồn và đồng hoa dại.
Ignacio Cường đầy cái va-li vào sau khoảng trống của cánh cửa, rồi trải nệm xếp ở phần sàn còn trống. Theo lời khuyên của bà Ái Liên, anh ra chợ mua mền và gối dành cho du lịch để không phải xài mền – gối của người ta.
– Tôi muốn ngồi thiền một lát.
– Tôi cũng cầu nguyện với Mẹ một lát.
Ignacio Cường thắp cho mình và bạn hữu khác đạo mỗi người một chung đèn cầy. Ly nến này anh mua ở một văn phòng phẩm Công Giáo thuộc sở hữu của nhà Dòng Chúa Cứu Thế; mỗi bận mua, anh đều mua cả mấy lốc để được hưởng giá sỉ cho hầu bao đỡ mỏng.
Vậy là một bên lần chuỗi Mân Côi và lầm rầm đọc Kinh, một bên ngồi thiền và quán sát hơi thở. Giữa không gian ngát hương núi rừng nhân tạo và sáp thơm dìu dịu, hai người thầy tu tìm về cõi Tịnh theo cách hiểu của bên Đạo mình. Chiếc đồng hồ vẫn cần mẫn nhích cái kim dài – kim ngắn hầu theo kịp dòng thời gian vô tận.
Y-Nhã Cường đã xong buổi cầu nguyện, hiện đang ngồi đợi Thanh Liên “trở lại'”. Rời xứ đã non nửa tuần mà các Thầy không gọi điện hỏi thăm, bên phía nhà Dòng cũng không liên lạc để sắp xếp chủ chăn mới cho bầy Chiên, bây giờ thì anh đã lờ mờ hiểu tại sao kẻ giả mạo Cha Thành lại có thể tự tung tự tác hàng chục năm qua.
Sẵn đang quởn, chàng Linh mục với tay lấy chồng Kinh Phật nằm mé tả người bạn Tăng sĩ mà giở coi. Anh không hiểu một chữ nào trong đó, vì hình như văn tự được ghi lại bằng tiếng Pali hay Phạn ngữ, không có lấy một nét Quốc ngữ. Tự nhiên anh nhớ tới những năm tháng ngồi còng lưng học tiếng Latin và Tây Ban Nha, bây giờ cảm xúc của anh y chang lúc đó vậy, chữ nó biết mình – chớ mình hổng có biết nó.
– Anh học giỏi tiếng Hebrew không?
– Không.
– Tại sao không?
– Không biết nữa.
– Tôi đang mạy mọ học tiếng Do Thái, tưởng đâu anh rành thì nhờ dạy giùm.
Y-Nhã Cường gãi đầu cười trừ:
– Sao anh không dạy tiếng Anh cho mấy đứa nhỏ?
– Tôi có ở thành đô thường xuyên đâu mà dạy được.
– Sao tôi ngu quá vậy nè?
– Không, anh đâu có ngu, uống thuốc riết rồi bị lẫn thôi. Uống thuốc Tây nhiều quá có ngày banh bộ đồ lòng và suy tổn thần kinh luôn.
– Tôi mặc quần đùi đi ngủ được không?
– Anh với tôi đâu phải cô dâu – chú rể mà nãy giờ cứ mắc cỡ hoài vậy?
– Anh biết tại sao tôi ngại không?
– Tại vì khuôn mặt của tôi giống nữ.
Ignacio Cường cười khổ.
– Anh làm tôi nhớ tới Linh mục An-Tôn Cao Nhật Vũ. Lần trước cũng vậy. Phải đợi Trì Thương đắp cà-sa đàng hoàng mới chịu bước vô.
Cù cưa một hồi, Y-Nhã Cường cũng chịu cởi bớt áo – quần để ngủ cho thoải mái. Thanh Liên vẫn chưa chịu đi ngủ, hãy còn đang ngồi đọc lại một chương trong Kinh Tương Ưng Bộ viết bằng tiếng Pali, đôi lúc anh ta dời mắt sang cuốn tự điển Việt – Anh – Pali để sẵn trên đầu gối trái.
– Anh đi tu trước hay ông Lợi đi tu trước?
– Châu Lợi đi tu trước.
– Vậy mà anh là Đại Trưởng lão?
– Tôn giả La Hầu La còn là Đại Trưởng lão dù tuổi chỉ mới vị thành niên. Bên Đạo tôi, không quan trọng vô trước hay lớn tuổi bao nhiêu, mà quan trọng ngộ trước và có thực hành đúng Bát Chánh Đạo hay không, mới có thể xem xét tính vô hàng trưởng bối.
– Còn lý do nào nữa không?
– Châu Lợi vẫn còn hận những người đã hại và bỏ rơi chú ấy. Mãi hơn chục năm sau, chú mới từ từ mà bình tâm lại được. Hồi trước tánh của chú ấy nóng lắm, ai nói gì không đúng ý là cãi lại liền, bây giờ là đỡ rồi đó.
– Hèn chi mà bữa hổm ổng đập tay xuống chiếu cái bốp thiếu điều muốn nứt xương luôn.
Có tiếng gõ cửa phòng, người đến là Khắc Xương, anh ta đem cho một dĩa múi bưởi và ổi xẻ kèm một dĩa nhỏ đựng muối tôm Tây Ninh. Sẵn đang ăn không tiêu nên Y-Nhã Cường nhận liền, không quên cảm ơn chàng cư sĩ mập một tiếng.
Vừa ngồi xuống nệm, Đức Cường vừa hỏi Kỳ Thanh:
– Bên anh có ai giỏi hùng biện không?
– Tôn giả Phú Lâu Na, một trong những người giỏi hùng biện nhứt Tăng đoàn. Ông thường có những cuộc tranh luận sôi nổi với thầy tu ngoại Đạo và người nghi ngờ Đấng Thế Tôn. Ngoài ra còn có Tôn giả Ca-Chiên-Diên, Xá-Lợi-Phất,…
Thấy Thanh Liên tự nhiên ngắt ngang, nghĩ rằng người bạn ngoại Đạo không muốn nói nữa nên Y-Nhã Cường hỏi chuyện khác:
– Tại sao bên mình có người làm sai mà lại không dám nhận và lên án?
– Bên tôi được mấy người binh hả anh?
Y-Nhã Cường bật cười, rồi vừa nhai ổi vừa gật gù xác nhận.
– Bản thân tôi đã đọc đi đọc lại những chương cuối đời của Đức Phật, cái Ngài trăn trở và dặn đi dặn lại là chuyện không thành lập Giáo hội hay một tổ chức có bề trên – bề dưới. Thời xưa chức sắc trong Tăng đoàn chỉ có Đại Trưởng lão, Trưởng lão, Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo Ni, Sa-di và Sa-di Ni mà thôi; không có Đại Đức, chẳng có Thượng Tọa, hay Trụ Trì quản xứ, ấy vậy mà số người đạt Đạo nhiều vô số kể, bây giờ hở chút là tấn phong người ở chùa lâu bằng đủ thứ vọng ngữ và chữ nghĩa hôn trầm…
– Anh nói nhiều người ở chùa lâu làm tôi nhớ tới cái nạn “Giáo sĩ trị” bên tôi. Binh lấy binh để. Hù dọa người nêu ý kiến bằng đủ cách quy chụp. Trích dẫn Kinh Thánh tầm bậy tầm bạ để chặn họng người nêu ý kiến.
– Một bài Kinh, một ngữ cảnh; không phải muốn bạ đâu cũng ráp vô được đâu. Tôi nhớ có lần Tôn giả Ananda đã hỏi sao bữa trước cùng là bài Kinh này Ngài giảng khác – bây giờ Ngài giảng khác, thì Ngài nói vì ngữ cảnh khác nhau nên ý nghĩa của bài Kinh cũng khác nhau theo. Nhưng chúng ta đâu có diện kiến Chúa hay Phật mà biết ngữ cảnh nào nên dùng bài Kinh nào; hết thảy toàn nêu bài Kinh theo kiểu cảm tính và có lợi cho quan điểm của mình không hà.
– Khác nhau như thế nào?
– Bài Kinh khác với tích truyện. Tích truyện là sự liên tưởng giữa hai sự kiện tương đồng nhau, thí dụ như Kinh sư với Linh mục mại Thánh chẳng hạn. Còn bài Kinh phần đông là khuyên răn người ta sống tốt đẹp và cải hối, nhưng, nhưng, nhưng cái ngữ cảnh tạo nên bài Kinh đó hầu như không hề khớp với ngữ cảnh mà họ đương gặp; thí dụ như tôi nhận xét anh ca dở ẹt, anh lấy bài Kinh mình đừng nên phán xét người ta để bắt tôi không được nói quan điểm riêng, vậy theo anh cái ngữ cảnh trong bài Kinh với tình huống của anh có khớp nhau không?
– Tôi hiểu rồi.
– Cho nên muốn nêu thí dụ thì lấy tích truyện chứ đừng có tùy tiện áp dụng kinh kệ. Xã hội thời nay nó khác với xã hội thời đó.
Ignacio Cường kể cho Thanh Liên nghe những tin tức trên đài, rồi chép miệng kết luận:
– Chỉ cần nói ở Việt Nam dễ đen da, dễ mắc bịnh là nhiều người ở đây giãy tử lên.
– Nhiều người tự xưng mình có đức tin nhưng hành xử y hệt như A-Tu-La.
Ignacio Cường mời người bạn ngoại Đạo giải thích.
– A-Tu-La rất dễ nổi điên và phẫn hận chỉ vì một chuyện trái ý nhỏ xíu, họ cũng y chang vậy. Họ nói họ tin nơi Phật và Chúa, nhưng hành động của họ lại hệt khuôn A-Tu-La, vậy suy ra trước giờ họ toàn theo Đạo ngoài môi chớ đâu chịu học và làm theo gương sáng của Thầy họ.
– Tức là sao?
– Nếu anh có siêng đọc bình luận của họ, anh sẽ thấy lỗi ngụy biện và “tiêu chuẩn kép” ở muôn nơi. Ai kể bên Pháp có trộm cắp – móc túi, bên Mỹ có vô gia cư, bên Nhựt có con cái bất hiếu,… thì họ hỉ hả đồng tình lắm, nhưng hễ kể đúng về xứ này là họ thành A-Tu-La liền.
– Hổng có đen, hổng có mắc bịnh mà số người ra đường quấn vải như xác ướp Ai Cập đông như kiến riện.
– Họ tự mâu thuẫn với chính họ, và họ tự chọt mù mắt họ, đâm thủng màng nhĩ của họ, chỉ chừa lại một cái lưỡi nói lời phiến diện vì mắt họ đã lòa và tai họ đã điếc.
Trước lúc đứng dậy cất sách rồi đi vệ sinh, Thanh Liên buông xuống một câu:
– Từ cổ chí kim, người nào nói Sự Thật luôn là người bị ghét, và phần đông những người đó sống không hổ thẹn với lương tâm hay nhọc công ghi nhớ những lời dối trá đã bịa để làm vừa lòng thế gian.
Còn lại mình ên, Ignacio Cường giở tập sách của văn hào Oscar Wilde ra đọc; có những tác phẩm của ông xứng đáng được đem vào dạy trong những buổi học Giáo lý hay thậm chí là giảng trên Cung Thánh, một trong số đó là “Giấc mơ của một nhà vua trẻ”.
Chừng khoảng nửa tiếng sau mới thấy Thanh Liên trở vô. Ignacio Cường mau miệng hỏi:
– Anh có hiểu chữ “Nghiệp” trong nhà Phật không?
– “Nghiệp” nó bao hàm nhiều nghĩa, không thể nào giải thích và giúp cho người ta hiểu rõ được. Một trong số những cái nghĩa của “Nghiệp” là sự vướng mắc hay trói buộc vào một cảnh huống cõi Ta-Bà; tỷ như đi tu cũng là một cái Nghiệp do bản thân mình lựa chọn, đương nhiên cái Nghiệp này sẽ đưa đẩy mình đến những Biến Thiên của Nghiệp khác mà ta không tài nào lường trước được, tốt hay xấu đều do ta lựa chọn.
Rồi nhìn anh bạn khác Đạo một đỗi, Thanh Liên mới nói:
– Họ không hiểu về chữ “Nghiệp” bên Phật Giáo thì cũng xin họ cũng đừng có luận luôn. Như tôi không hiểu về sự quan phòng của Chúa, tôi đâu bao giờ luận giải, chứ đừng nói chi là phân tích theo góc nhìn bên Đạo mình.
– “Nghèo là cái Nghiệp” là sao anh?
– “Nghiệp” ở đây là nói về hoàn cảnh sống và cách bước vào đời của một người.
– Vậy ai là người giải cái Nghiệp nghèo của một người được hả anh?
– Các tổ chức an sinh xã hội của chánh phủ. Lập ra chánh phủ để cho vui hay sao, mà bắt các tôn giáo phải yêu thương và lo cho người nghèo giùm họ? Rất nhiều người đòi hỏi các Tăng sĩ phải đi làm thay chánh phủ cái vụ này, vì cho rằng họ đã nhận được rất nhiều tiền cúng dường, nên phải trích ra lo cho người nghèo, rồi rốt cuộc đó là cái chùa hay tổ chức an sinh xã hội tư nhân?
Người nào đặt câu hỏi trên chứng tỏ người đó không biết một chút gì về Phật Giáo, và người nào cúng dường hiện kim cho Tăng sĩ cũng chứng tỏ người đó không biết một chút gì về Phật Giáo luôn.
– Ngay cả Bắc Tông?
– Bắc Tông thời xưa cũng rất ít khi lấy tiền, họ nhận lương thực mà thí chủ gởi biếu hoặc tự trồng rau cải mà nấu ăn, có ai cho quá giang thì đi – còn không thì đi bộ.
– Vậy là lỗi ở Phật tử không chịu đọc hướng dẫn cúng dường trong sách?
– Phải.
– Anh nghĩ sao về chuyện các tôn giáo lãnh phần cứu tế và khuyến học?
– Một trong những cái bẫy mà một chế độ bất tài hay giăng ra là “Tốt đời – Đẹp đạo”. Họ cổ võ cho các tôn giáo đứng ra làm thay cơ quan an sinh xã hội và tuyên truyền rằng đó là điều mặc nhiên. Về phần mình, ngân khố quốc gia đổ vô túi họ và những công trình vô bổ. Người dân vẫn nghèo và các tôn giáo vẫn phải è lưng ra gánh vác công việc bắt buộc của chánh phủ.
Anh có thấy những nước tiên tiến và có nhiều người tìm cách định cư không? Các tổ chức tôn giáo chỉ hỗ trợ thêm và đồng hành cùng chánh phủ; còn chuyện “Cứu khổ – Cứu nạn” là việc mà chánh phủ phải lo hết ráo, các tổ chức tôn giáo chưa kịp phản ứng và lên đường thì họ đã nhảy ra lo liệu chu toàn rồi.
Khi một quốc gia dựa vào tôn giáo để sống còn là cái quốc gia đó đang trên bờ vực suy vong và tan tành.
Ignacio Cường đã nhận được câu trả lời thỏa đáng nên bình luận về chuyện Đạo mình:
– Cái câu mà bên Đạo tôi hay đem ra xài mà tôi thấy mắc cười nhứt là “Chúng ta đừng nên tranh luận, hãy nên cầu nguyện cho họ”. Cầu nguyện riết rồi chìm xuồng không biết bao nhiêu vụ. Kể cả những vụ tử Đạo nhói lòng.
– Anh làm tôi nhớ tới câu “Thế gian đầy dẫy cái ác và điều dữ vì sự im lặng của con người”.
– Anh nghĩ sao về sự hiểu biết Phật Giáo của các tu sĩ bên tôi?
– Xin đừng đọc Tạng Luận, nếu không đọc Tạng Kinh và Tạng Luật thì xin đừng đọc Tạng Luận. Nếu muốn đọc Tạng Luận, hãy đọc Tạng Kinh và Tạng Luật hết đi rồi hẵng tìm tới Tạng Luận.
– Vậy ra anh đã thấy bên tôi có một số Thầy đã nói sai về các khái niệm bên Phật Giáo?
– Phải. Và họ đưa dẫn chứng là Tạng Luận! Giống như thay vì đưa dẫn chứng là Thánh Kinh, tôi lại đưa bài luận của Đức Cha Gabriel – Đinh Thái. Và anh thấy Kinh Thánh hay bài luận, cái nào đúng và rõ nghĩa hơn?
– Tôi hiểu rồi.
– Tôi nhớ hoài một thầy tu bên anh đem luận giải về Nghiệp của một sư thầy bên tôi để chứng minh khái niệm Nghiệp là sai và hại đời – hại người. Bữa hổm tôi kể anh nghe chuyện Tiến sĩ Phật Học rồi đó.
– Anh có thể cho tôi biết thêm một nghĩa khác của Nghiệp và thí dụ cụ thể không?
– Nghiệp cũng có nghĩa là “Lựa chọn”. Anh không thích đàn bà – con gái, ba má bắt anh cưới, anh cũng ráng chiều theo, rốt cuộc anh để cho ái nữ nhà người ta Cộng Nghiệp với anh luôn. Lúc này Nghiệp đã Biến Thiên sang một hàm ý khác.
Y-Nhã Cường gật đầu.
– Mỗi bước đi là một bước tạo ra Nghiệp. Nghiệp đó ra sao là ở mình.
– Anh không sợ người ta ghét sao?
– Tôi bỏ hết tất cả để đi tu, há chăng còn sợ bị người khác ghét nữa hả?
Y-Nhã Cường lại gật đầu. Hai người mà sống ở ngoài đời thể nào cũng bị ghét bỏ và trù dập vì cái miệng thẳng hơn ruột ngựa của mình.
– Mà nè, uống thuốc đi, cái chân của anh mà không săn sóc kỹ là nguy.
Ignacio Cường vỗ đùi cái đét:
– Anh không nhắc là tôi quên béng rồi… Nhưng mà, mới ăn bưởi, uống vô dã thuốc hết sao?
Thanh Liên phì cười:
– Uống đại luôn đi cha.
– Cho tôi hỏi một câu chót, một câu rất nặng và khó trả lời…
Thanh Liên chắp tay mà nói:
– Sadhu.
– Tại sao Cơ Đốc Giáo không phát triển ở Tây Tạng?
– Vì quan điểm độc thần bên anh đó. À, sẵn đây, tôi cũng phải nói luôn một chút về văn hóa Tây Tạng…
– Ừa.
– Bên Tây Tạng, thè lưỡi là một cử chỉ hoan nghinh và yêu mến; trái với cách nhìn nhận của rất nhiều quốc gia khác trên thế giới về hành động này. Anh có thể tìm thấy trên mạng rất nhiều hình ảnh nhà sư nói riêng, và người dân nước này nói chung, đang thè lưỡi.
– Cũng như Ba Tây, làm dấu OK đồng nghĩa với chửi người ta. Còn đại đa số các quốc gia khác thì đó lại là biểu tượng của sự khen ngợi và đồng tình.
– Mấy bữa rày thấy lùm xùm mà tôi mắc cười. Bởi vậy Vô Minh là nguồn gốc của mọi đau khổ mà.
Ignacio Cường liền nhớ ra chuyện Đức Đạt Lai Lạt Ma bị chỉ trích vì đã lè lưỡi trước mặt một bé trai. Thì ra ông chỉ muốn chào hỏi đứa bé, chứ không có ý định hun nó, nhưng do bất đồng văn hóa mà đã làm bé trai tưởng lầm rằng ông muốn hun nó nên khuôn mặt của bé thể hiện rõ sự bực mình và miễn cưỡng khi kê sát lại mặt ông. Nhưng rốt cuộc, ông vẫn nhận phần sai về mình và công khai đứng ra xin lỗi.
– Khốn nạn quá anh há?
– Có chi đâu khốn nạn anh.
– Họ thổi phồng sự việc mà anh không tức hả?
– Người bị còn hổng tức thì tôi tức giùm làm gì?
– Nhưng mà, tại sao mình không có lỗi mà vẫn nói mình có lỗi vậy anh?
– Với một người thực lòng muốn theo chân Phật thì họ sẽ xét lỗi của mình trước rồi mới nghĩ đến lỗi của người sau; thành thử, sau một lúc xét tới xét lui, họ sẽ không nhìn thấy lỗi ở người nữa, chỉ thấy lỗi ở mình mà thôi.
Ở trong Phật Giáo, có một câu chuyện kể rằng một thầy tu đi khất thực bị thí chủ cúng dường vu khống là đã lẻn vô phòng lấy viên ngọc quý, ông vẫn im lặng nán lại nghe chửi mà không thanh minh một lời. Nói hoài nói hủy mà không lấy được viên ngọc, thí chủ đó tức quá phang cây gậy vô con ngỗng để xả cơn giận. Đến chừng con ngỗng tắt thở, thầy tu ấy mới mở miệng nói, “Ban nãy con ngỗng này nuốt viên ngọc của thí chủ.” Thí chủ đó nửa tin nửa ngờ bèn sai gia nhân mổ bụng con ngỗng ra coi. Thì quả nhiên, viên ngọc nằm ở trong đó.
– Vậy là nếu như con ngỗng đó không chết, ông đó sẽ bị vu oan cả đời sao?
– Phải. Và đây là một câu chuyện ngụ ngôn có ý khuyên người tu hành phải giữ vững sơ tâm giữa miệng tiếng thế gian và thà hủy mạng mình chứ không hủy mạng ai khác – kể cả cái mạng đó là mạng của một con thú.
Nói đến đây, Thanh Liên xin phép đi ngủ.
– Anh ơi, tôi phải đọc bao nhiêu sách nữa mới không bị người ta xỏ mũi dẫn đi?
– Đọc tới chết. Và phải quên rằng mình Đạo nào khi đọc sách, bởi vì đức tin sẽ cản bước anh đến với tri thức trọn vẹn.
Y-Nhã Cường chắp tay xá Thanh Liên một cái. Anh đã tìm thấy “cội Bồ-Đề” rồi.
– Xuống dưới nhờ cô Trân nấu cho cái gì ăn đi. Thuốc này uống vô dễ nuổng lắm.
– Dạ.
Thanh Liên không ngạc nhiên trước tiếng “Dạ” của Ignacio Cường. Anh làm ấn thủ xác tín trước lúc nằm xuống chợt mắt một lát. Đã quen với kem đánh răng tự chế nên vị của kem đánh răng công nghiệp đã làm cho chàng thoáng khó chịu.
Vừa bước xuống cầu thang, Đức Cường đã nghe thấy tiếng của Quế Trân:
– Cường, ăn gì hôn – tui làm cho ăn?
– Cảm phiền cô nấu giùm tôi tô mỳ thôi.
– Gì? Mặt mày thẹo không, ăn vô cho thâm hay chi, cha? Ráng đợi xíu đi. Tui bắc nước trụng hủ tíu – hâm nước lèo cho mà ăn.
Khắc Xương đang ngồi ăn hủ tíu, nghe vậy, buông đũa xuống rồi trề môi phán:
– Chắc ăn nước tương hổng thâm?
– Nước tương dẫu sao cũng ít độc hơn mỳ gói. Học Luật riết lú luôn.
– Chị đi đốn chuối mướn riết nói chuyện ngang như cái đòn gánh.
– Giờ, muốn tôi ăn ở trong bếp hay ra ngoài chợ ăn?
Vậy là hai người kia liền im re.
Cũng may hồi nãy trên đường về có ghé mua đồ ăn khuya nên giờ này ai đói cũng có cái ăn. Tiệm này bán hủ tíu – mỳ có xương, thịt xá-xíu, chả quế, trứng cút, lòng heo luộc (riêng bao tử thì phá-lấu với nước dừa) và tóp mỡ; đứng đợi nửa tiếng mới vô mua nổi, bây giờ ăn rồi cảm thấy thật xứng công chờ.
Ăn uống xong, Khắc Xương lãnh phần rửa chén và lau dọn giùm con nhỏ mỏ hỗn. Tự nhiên nghe nó nhỏ nhẹ cảm ơn anh một tiếng, sao mà thấy nó hết hỗn hết loi choi luôn rồi, chỉ thấy nó chơn chất – thiệt thà như loài bông so đũa mọc sát mí sông – tiền đắng mà hậu ngọt.
– “Phải lòng con gái Bến Tre” rồi hả?
– Ờ thì… có một xíu… xíu xiu thôi.
– Những người như cổ vậy mà không có hiểm như những kẻ thơn thớt nói cười và nói gì nghe cũng bùi lỗ tai.
Lúc này đã hơn hai giờ sáng, ngoài trời đột nhiên chuyển mưa lớn, những tiếng sét nã ầm ĩ như muốn chẻ đôi tòa nhà bốn lầu này vậy. Thảng nghe trong tiếng mưa, có những gió rít đinh tai nhức óc; dông từ nơi mô mà trỗi dậy dữ rứa?
– Thôi ngày mốt rồi hẵng lên đường… Mưa gió vầy chạy xe nguy hiểm lắm. – Khắc Xương vừa rửa chén vừa nhăn mặt nói.
– Tôi cũng nghĩ vậy. Ý là trời nắng chang chang, hai người còn lái muốn tắt thở luôn. Mưa vầy “Siêu nhân Điện Quang” xẹt qua xẹt lại sao hai người biết đường mà lái.
Thanh Liên đã thức giấc. Một ngày anh ngủ khoảng sáu tiếng. Vừa nãy trên xe đã ngủ rồi nên giờ chỉ cần ngủ thêm vài tiếng nữa đã đủ giấc.
Ignacio Cường vừa mới ăn no nên ngồi dựa lưng vào tường một lát mới dám đi ngủ. Anh đọc tin tức trên các trang mạng “Công Giáo”. Đọc đâu được một lúc, chàng Linh mục quay sang hỏi người bạn Tăng sĩ:
– Anh nghĩ sao về việc cầu nguyện?
– Cầu nguyện mà không hành động thì làm sao thay đổi được.
Y-Nhã Cường ra hiệu mời chàng ta nói rõ hơn.
– Thành ra Đức Phật không khuyên tín đồ cầu nguyện, mà Ngài khuyến khích họ phải hành động. Và hành động theo hướng nào thì kết cuộc của mình có thể cầm chắc theo hướng ấy.
– Tại sao lại là có thể cầm chắc mà không phải một nhóm chữ khẳng định nào khác?
– Vì đời này là Vô Thường, hơn nữa lại Cộng Nghiệp với người xung quanh nên không thể nào chắc chắn được.
– Thí dụ?
– Thí dụ như cả đời anh ăn ngay ở phải, ai mà ngờ đâu về già thằng con cạy tủ lấy hết không còn một đồng. Đó là sự Biến Thiên của Nghiệp.
– Vậy tại sao người này lại bị vậy?
– Vì chiều con quá hoặc không la rầy dạy dỗ nên nó lờn mặt.
– Không phải là tại kiếp trước sao?
Thanh Liên cười rộ lên:
– Đang sống ở kiếp này thì ngó chi xa ở kiếp trước? Mà dẫu biết rồi cũng có thay đổi được đâu.
– Bên Đạo anh có cái gì xấu cũng đăng công khai hết và lên cả báo luôn.
– Phải, bên Đạo tôi hễ có cái gì xấu hay khuất tất đều được hê lên. Và hiếm có ai bị rủa xả hay quy kết là chống đối Giáo hội; thậm chí kẻ binh vực bầy đàn Ma Tăng còn bị đem ra tố giác luôn.
Trước lúc ngả lưng xuống nệm, Thanh Liên nói với Đức Cường rằng:
– Trong Đạo Phật, mọi Tăng sĩ có quyền đặt câu hỏi và chọn cách tu hành dựa trên khả năng của mình mà không bị nói là lạc Giáo. Như Ma-Ha Ca-Diếp đâu có đi khất thực thường xuyên như lời Phật dạy, thường thì Tôn giả hái trái cây và uống nước sông, nước suối sống.
– Và giờ thì anh sống hệt vậy? – Nói đoạn, Đức Cường cũng nằm xuống theo.
– Sadhu.
Nhưng cơn mộng không tìm về với chàng Cha Cọp. Chàng hết xoay trái rồi lại trở mình sang phải, hầu làm cho gân cốt mỏi nhừ mà chóng mệt dễ ngủ say. Quay qua quay lại một hồi mệt quá, chàng đành mở bài hát “Friendly persuasion (Thee I love)” do nam danh ca đã bị phai lãng theo vòng xoáy thời đại Pat Boone biểu diễn lên nghe. Chàng đưa mắt nhìn gương mặt hiền hòa của Thanh Liên rồi nhoẻn miệng cười mà yên tâm nhắm mắt thiếp đi. Bên tai chàng văng vẳng dư âm của một thuở lời ca không bị nhơ nhớp bởi ý tứ nhục dục…
oOo
Quán cà-phê “Sóng Nhạc” bữa nay thưa khách. Sắp vào mùa thi nên đứa nào đứa nấy xin làm vài tiếng để kịp giờ đi học thêm hoặc học nhóm. Thấy vậy, Thừa Tân tặng luôn cho mỗi đứa một giờ rưỡi lương, thay vì giảm tiền xuống, thành thử dù làm ít nhưng số tiền xấp nhỏ nhận được vẫn như cũ.
Một người khách nam hỏi Thừa Tân:
– Anh nghĩ sao về vụ Tuấn Ngọc sửa lời bài “Tình bơ vơ” của nhạc sĩ Lam Phương?
– Chuyện không đáng rần rần thì rần rần, chuyện đáng rần rần thì không chịu rần rần.
Người khách chờ nghe Thừa Tân nói rõ hơn, nhưng anh ta lại hỏi sang chuyện khác:
– Anh nghĩ tôi làm chủ quán cà-phê chuyên phát nhạc trước năm 75 để làm gì?
– Để kiếm tiền.
– Một nửa lý do thôi. Phần còn lại là để giữ gìn dòng nhạc trước năm 75 và những mẩu chuyện về các nhạc sĩ cùng ca sĩ ở giai đoạn này.
Người khách gật đầu.
– Cho nên tôi thừa biết người nào sửa lời bài nào, biết trước rất, rất nhiều người nữa kìa.
– Đâu, có ai hát mà sửa lời nữa không anh, liệt kê luôn cho đủ bộ đặng cho xôm tụ?
– Hương Lan với bài “Chiều Tây Đô” của Lam Phương, Giao Linh với bài “Mùa sao sáng” của Nguyễn Văn Đông, Chế Linh với bài “Ước nguyện đầu Xuân” của Hoàng Trang, rất nhiều ca sĩ đã sửa lời ca khúc “Đò chiều” của Trúc Phương: “Khoe sắc Cộng Hòa” thành “mặn mà”, “đậm đà”, “hiền hòa”, “chan hòa”, “nhu hòa”,… Không hiểu sao trường hợp của ông Ngọc lại nổi như cồn và khắp nơi lên bài binh – chống – trung dung búa lua xua.
– Có lẽ là vì hai chữ “Việt Nam” đó anh.
Thừa Tân nhếch miệng cười:
– Anh có biết nhạc sĩ Thanh Sơn đã bỏ luôn câu “Tôi đi trên đất nước tôi Việt Nam” không? Từ bài “Hành trình trên Quê Hương” ông chuyển thành “Hành trình trên đất phù sa”. Cái bài gốc thể hiện lòng hãnh diện của một người con Việt Nam đối với lịch sử dựng Nước; sau năm 75, nó chuyển thành một bài hát nói về tâm tình một người lữ khách trong hành trình rong ruổi trên đất phù sa.
– Bài sau có ai ca hay hôn anh?
– Cô Hương Lan.
Một người khách khác xen vô hỏi:
– Ông Sơn còn sửa bài nào nữa không anh?
– “Bài ngợi ca Quê Hương”, sau năm 75 ông Sơn đã viết lại thành bản “Hồn quê”. Hai câu nhạc đắt giá nhất của bản gốc, đối với tôi là: “Hòa bình ơi đón chờ từ lâu, người Việt Nam hãy hòa hợp nhau. Ánh dương soi sáng ngời, xóa hận thù – thôi binh đao.”
Rồi Thừa Tân trình bày tiếp, trong lúc lấy khăn sạch lau máy bào đá:
– Sau năm 75, có rất nhiều bài có chữ “Việt Nam” đã được các nhạc sĩ tự bỏ và thay thế bằng một câu khác hay đổi thành nội dung hoàn toàn mới luôn; thậm chí không nhận mình là người sáng tác. Điều này chắc ít người biết dữ lắm, vì đâu có ai làm một bài tổng hợp đâu. Sau này nếu có dịp, tôi sẽ giới thiệu đầy đủ cho anh nghe, còn bây giờ nhớ tới đâu tôi nói tới đó thôi.
Còn nhiều, nhiều lắm anh à. Chẳng qua trong giới ca sĩ thì Tuấn Ngọc bị phát hiện trước thôi. Chuẩn bị tinh thần đi.
Người khách cười khổ giãi bày:
– Sao tôi thất vọng quá anh ơi.
– Thần tượng quá làm chi rồi đâm ra thất vọng nặng nề? Con người còn sống là còn thay đổi. Như tôi hồi nhỏ rất ghiền ăn đồ ngọt, lớn lên chỉ thích ăn vị cay và lạt, sau này về già sẽ ăn theo kiểu nào nữa thì không biết nổi.
– Anh làm tôi nhớ chuyện Chế Linh bị bắt vì hát bài “Thành phố buồn” của nhạc sĩ Lam Phương.
Ông bạn hàng với Thừa Tân vừa cùng thằng-lơ khệ nệ khiêng cái cần-xé xuống nhà sau vừa nói vọng lên:
– Gì? Xa hơn nữa… Ở dưới quê tui nè, hồi đó ai mà hát hay nghe nhạc Vàng – nhạc Tiền Chiến là bị bắt đi “cải tạo tư tưởng” liền. Mấy cái đình, cái chùa ở dưới quê tui hồi xưa nhốt người ta đầy vì mắc tội trên á.
Cả chủ quán lẫn khách đều cười khúc khích.
Thừa Tân nói:
– Mà trong vụ này, tự nhiên tôi cảm thấy mắc cười…
– Mắc cười sao anh?
– Tuấn Ngọc mà đi hát nhạc Lam Phương, hổng khác nào Chế Linh trình bày nhạc Vũ Thành An hay Trịnh Công Sơn.
Thừa Tân vừa bỏ đá lạnh vô máy bào vừa cười kể:
– Hồi nhạc sĩ Phạm Duy và Lữ Liên còn sống, hai cụ đã giúp con cái chọn bài hát phù hợp với tông giọng. Sau này hai cụ già yếu, bên nữ còn đỡ – bên nam, ngoại trừ Anh Tú ra, thì như ngựa mất dây cương, bạ nhạc nào cũng ca nên bị chê quá trời quá đất.
Người khách chỉ biết lắc đầu cười.
– Anh thấy nào giờ Duy Quang, Anh Tú và Tuấn Ngọc ca nhạc Lính ra sao?
– Hình như hơi… trớt quớt.
– Thành ra hai cụ từ hồi trước năm 75 cho đến khi mất đâu có để cho họ ca nhạc Lính. Chỉ là họ tự ý chọn bài rồi biểu diễn mà thôi.
Ngừng một lát để làm si-rô đá bào cho nhóm khách ngồi ở bàn số Năm, Thừa Tân mới quay lại mà nói:
– Cái thế hệ nhạc sĩ trước năm 75 mà tiêu tán hết thì cái thế hệ ca sĩ trước năm 75 cũng tiêu tùng luôn. Các vị ấy không chỉ sáng tác giỏi, mà độ cảm âm còn rất nhạy bén, nên chọn ai hát bài nào là người đó vụt sáng liền.
Một cô khách trẻ ghé mua mấy ly trà sữa hỏi anh:
– Anh nói cụ thể được không? Con gái tôi rất có khiếu về thanh nhạc nên muốn nghe nhiều ý kiến về cách luyện thanh.
– Thuở xưa, cô Thái Hiền còn nhỏ, dây thanh quản chưa vững và cột hơi cũng còn yếu nên cụ Duy không để con gái hát những bài cao lảnh lót như em vợ Thái Thanh, mà chọn cho cô Thái Hiền những bài có quãng trung và cao vừa. Nhờ biết dưỡng giọng mà sau này khi trưởng thành rồi, tiếng hát của cô Thái Hiền có âm sắc riêng và lên được nốt cao lảnh lót. Một điều đặc biệt nữa, là Thái Hiền hợp với dòng nhạc Trữ Tình sâu lắng và Thái Thảo hợp với dòng nhạc Sôi Động tươi vui.
Thời này ngược lại…
– Ngược lại là sao anh?
– Có một cô ca sĩ nghĩ con gái của cổ cũng giống cổ nên đã để cho nó hát toàn những bài nốt cao ngất ngưởng, nên lần nào con nhỏ lên biểu diễn là bị người ta chê lần đó, vì nửa khúc đầu thì ca hay lắm nhưng tới nửa khúc sau hết hơi nên hát bị lạc giọng và thậm chí còn bị the thé chói tai. Cổ mà còn cho con cổ trình bày những ca khúc có quãng cao như vầy là coi chừng có ngày nó bị đứt dây thanh quản là khỏi líu lo líu lô gì luôn.
Cô gái trẻ bật cười.
– Mấy đứa con nít có năng khiếu thanh nhạc thường bị rơi vào cái bẫy tranh đua của người lớn. Thí dụ như nhiều người khoái khoe con hát được bài “My heart will go on”, “I will always love You”,… Trời ơi, mới nứt mắt mà biểu diễn mấy bài này là đi tong dây thanh quản luôn!
Cô gái trẻ nghe xong sợ xanh mặt.
– Cứ cho nó hát nhạc Thiếu Nhi sao cho tròn vành rõ chứ trước đi. Rồi sau đó hẵng tùy theo sức khỏe và âm sắc của nó mà lựa cho nó những bài hát “chững chạc” hơn.
– Tại sao lại tùy theo sức khỏe hả anh?
– Có cô ca sĩ ngoại quốc bị bịnh tim bẩm sinh, nhưng dù mệt vẫn ráng ra biểu diễn hết mình vì thương khán giả, đến chừng lên nốt cao quá bị đứng tim mà gục chết tại chỗ trên sân khấu.
Cô gái trẻ nói lời cảm ơn Thừa Tân, rồi cất giọng tạm biệt.
Người khách hồi đầu lên tiếng hỏi:
– Có ai bị nhận nhầm ca khúc không anh?
Thừa Tân gật đầu:
– “Chúa Nhật buồn” là của Phạm Vũ Anh Tứ, tức nhạc sĩ Đài Phương Trang – Xét theo vai vế trong họ thì là cháu của nhạc sĩ Thái Ngọc Sơn. Còn “Chủ Nhật buồn” là của nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng. Hiện nay người ta lấy bài hát của ông Trang hát dưới tựa ca khúc của ông Bảng y hệt như râu ông nọ cắm cằm bà kia.
Một người khách khác xen vô:
– Cũng như bài “Một mình” của Phạm Thế Mỹ và Lam Phương. Trùng tựa nhưng nội dung hoàn toàn khác.
Người khách ban nãy lại hỏi:
– Anh có bằng chứng không?
– Băng nhạc “Premier Số 2 – Chủ đề: Một thuở yêu nhau”. Lưới mắt xuống cuối bìa đĩa là thấy liền.
– Còn bài kia?
Thừa Tân nhún vai:
– Kiếm hổng ra.
– Vậy ông Bảng có ca khúc nào bị sửa tựa không?
– Nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng lúc sáng tác lấy tựa là “Sương đêm”, nhưng lúc giao cho cô Hoàng Oanh ca để thâu âm thì không biết ai hay vì lý do nào đã đổi thành “Sương phủ đường khuya”. Ngày ấn định ghi rõ ràng rằng 27/08/67; thành ra không thể nói là do đời sau sửa tựa được.
– Cái tựa sau hay hơn.
– Phải, mà cái tựa “Sương đêm” na ná mấy bài kia nữa. Hiện thời tờ nhạc cũ còn lưu giữ cái tên gốc là “Sương đêm (Anh về đêm nay)”.
Người khách khác lại hỏi:
– Còn bài nào trùng tựa nữa không?
– “Cho trọn đường trần”, một của nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương và một của nhạc sĩ Khánh Băng.
Người khách chen ngang hồi nãy lại hỏi:
– Có nhạc sĩ nào có tác phẩm đặt nhiều tựa không?
– Như trường hợp của nhạc sĩ Thanh Sơn chẳng hạn, cùng một bài hát mà mỗi hãng ông giao ca khúc với cái tên khác nhau. Một bên là “Những vùng đất mang tên Anh”, còn một bên là “Thăm những vùng địa sử”. Bài này không biết đời nay có trình bày đúng lời gốc hay không nữa, vì tôi không ưa nghe những ca sĩ trẻ hát nhạc trước năm 75.
Một người khách ngồi uống sâm dứa sữa ở quầy bình phẩm:
– Chừng nào xứ này bớt thêm thật nhiều người hâm mộ giới giải trí và ôm thần tượng trong lòng thì họa may xã hội mới đổi khác được.
Bạn của người khách uống sâm dứa sữa đặt câu hỏi với Thừa Tân:
– Anh nghĩ sao về việc có người nhân vụ này mà chê Tuấn Ngọc hát dở như hạch?
– Mỗi người đều có một nét thường thức riêng, thích hay ghét, chê hay khen là quyền của người ta. Thành ra nhiều khách tới đây không ưa giọng Thái Thanh hay ca sĩ nào khác đi chăng nữa mà yêu cầu đổi bài, tôi vẫn chiều theo liền. Song, sẵn đà mà chê thì thôi khỏi nói, bởi có công tâm đâu mà mình phải lắng nghe ý kiến của họ.
– Hỏi thiệt anh có thích ca sĩ hay nhạc sĩ trước 75 nào nhứt không?
– Không. Ai ca bài nào hay thì tôi nghe người đó. Nhạc phẩm nào dở thì tôi xếp xó. Chỉ vậy thôi.
Có người giao hàng tới lấy mấy ly trà sữa, Thừa Tân bèn ngắt ngang cuộc trò chuyện mà đi múc các món ăn kèm và bỏ đá vô mấy ly trà sữa đã pha chế; về phần đóng gói thì anh giao cho nhân viên làm.
Đi bưng ly bạc-xỉu cho người khách ngồi ở bàn số Bốn xong, Thừa Tân vừa trở lại quầy vừa nói với nhóm khách hiếu sự:
– Anh muốn nghe tình sử của Trần Thiện Thanh không?
Người khách uống sâm dứa sữa hỏi bằng giọng sửng sốt:
– Bộ cũng có chuyện hả anh?
– Nhạc sĩ nào mà không có chuyện, chỉ là chuyện cảm thông được với chuyện không thể thông cảm được mà thôi. Họ đâu phải Tiên – Thánh giáng trần mà tốt hoàn toàn. Do đó đi lấy đời tư hay quan điểm chính trị để vùi dập khả năng sáng tác của họ cũng là một việc làm thiếu công tâm và giàu tính vị kỷ; giống như tôi nấu cho anh ăn, thay vì phê bình phẩm chất và cách chế biến, anh lại đá sang chuyện nhà sạch – nhà dơ và tình cảm trai gái của tôi để trừ điểm món ăn của tôi vậy.
– Nhưng mà rất nhiều người làm như vậy, tức là lấy đời tư và quan điểm chính trị để phê bình tác phẩm theo chiều hướng thiếu khách quan… Nói huỵch toẹt ra thì ghét ai là công nhận người đó ca dở và viết nhạc dở.
– Thì thây kệ họ. Nếu như Song Ngọc nghĩ vậy thì đâu có bài “Than thở” mượn ý thơ của Xuân Diệu. Phần đông giới sáng tác trước 75 chẳng cần biết anh theo ai và đời tư ra răng, họ chỉ cần biết tác phẩm của anh hay hoặc là dở, có ăn cắp ý tưởng hay đạo nhái tác giả khác không, và nội dung sáo mòn hay sáng tạo, nhân bản hay hận thù,… mà thôi. Những nhà phê bình tác phẩm mà không công tâm thì sẽ bị người trong ngành mắng vốn liền, ấy là chuyện xảy ra trước năm 75; còn bây giờ phần đông phê bình tác phẩm là dựa trên thương – ghét, quan điểm chính trị và tiền.
Nếu anh có siêng xin tìm nghe nhạc Tiền Chiến của Phan Huỳnh Điểu rồi đem so sánh với nhạc Đỏ cũng do chính ông sáng tác, anh sẽ hiểu lòng hận thù và định kiến cá nhân đã giết chết tài năng của một nhạc sĩ ra sao.
– Phải, nhạc Tiền Chiến của ông này rất nên thơ và trữ tình. Chuyển sang viết nhạc Đỏ xong, mất tiêu hết luôn hồn nhạc mà ổng từng có…
Người khách nghe bạn mình nói xong, mới lên tiếng hỏi:
– Có bài nào mà anh biết ca sĩ thời nay sửa lời nữa không?
Hỏi xong, anh ta uống một ngụm nước chanh leo chua ngọt sảng khoái.
Thừa Tân nhịp nhịp ngón trỏ trên mặt bàn một đỗi, rồi mới nhớ ra mà trả lời rằng:
– Trong bài “Còn chút gì để nhớ?” do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ thơ của thi sĩ Vũ Hữu Định, có câu “Trên đồn biên giới” thường bị hát nhầm thành “Trên đường biên giới”. Người trình bày vừa đúng lời vừa truyền cảm nhất, đối với tôi chỉ có nam ca sĩ hải ngoại Anh Dũng mà thôi.
– Vì sao “Trên đồn” mới đúng?
– Vì thi sĩ đóng quân trên đây nên mới viết ra câu “Trên đồn biên giới”, chứ ông đâu có đi du lịch tới chỗ này mà viết thành “Trên đường biên giới”. Sai một li banh luôn cái ngữ cảnh.
Người khách uống sâm dứa sữa nhận xét:
– Anh Khoa và Anh Dũng, luôn hát đúng lời bản nhạc gốc.
Người khách hồi đầu đặt câu hỏi với Thừa Tân:
– Người ta hay nói ca sĩ miền Nam hát theo giọng miền Bắc, vậy có trường hợp nào ngược lại không anh?
– Trường hợp này không phải là hát theo, mà là hát với giọng miền Nam như Hùng Cường mặc dù gốc gác là Bắc Kỳ “hồi chánh”, người đó chính là Bùi Thiện. Hơi hám trong tiếng ca không hề bị pha lẫn một xíu âm sắc cố hương, trái lại y chang như đẻ ra ở trong này.
– Quái vậy anh?
– Và đặc biệt, ông không bị lẫn lộn “r”, “d”, “gi” như một số ca sĩ gốc Bắc cùng thời. Cách nhả chữ của ông làm người ta nghĩ ông là người miền Nam. Ông còn có thể hát Opera và nhạc Cổ Điển Tây Phương.
– Đâu, anh cho tôi nghe thử một bài đi.
– “Chuyện tình liêu trai” của nhạc sĩ Vinh Sử, trong bài này ông ký tên là “Hàn Ni”.
Nghe đâu được mấy câu, người khách ấy phá lên cười thích thú rồi bình phẩm:
– Khoan, “Đẹp nhứt”?
– Ừ, ngộ một cái là ổng phát âm y như người Nam Kỳ rặt vậy.
Mấy người kia ngó nhau mà cười theo.
– Ngoài ra, gương mặt của ông nhìn giống người miền Nam hơn miền Bắc nữa.
Người khách uống nước chanh leo hỏi Thừa Tân:
– Sao ổng vô Nam vậy anh?
– Ông vô Nam vì một phần yêu âm nhạc, ở ngoải thời đó cấm đoán đủ điều, vào đây tha hồ sáng tác và biểu diễn. Người có ơn trong nghề này với ông nên kể đến nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, biết ông có tài nên đã ra sức giúp đỡ và hướng dẫn – chỉ bày, thậm chí dù tên tuổi ông chưa có trong làng nhạc và cái lai lịch của ông cũng khá lộn xộn vậy mà ông Thơ vẫn cho ông góp mặt trong các dĩa hát và tác phẩm của mình, cũng như các chương trình ca nhạc và các chuyến đi lưu diễn.
Người khách hồi nãy nói bằng giọng buồn buồn:
– Nên anh mới biểu mất đi thế hệ nhạc sĩ 75 là lớp ca sĩ 75 cũng chết dần theo.
– Phải. Họ lăng-xê anh vì họ yêu âm nhạc và quý trọng tài năng của anh, chớ hổng phải vì anh theo phe họ thích hay làm lợi cho họ. Và họ nghiêm khắc với anh cũng vì thương anh chớ hổng phải tư thù vị kỷ mà vùi dập và làm khó làm dễ.
Không có Nguyễn Văn Đông thì không có Thanh Tuyền, Giao Linh và Hà Thanh. Không có Trần Thiện Thanh và Mai Trường thì không có Thanh Lan và ban “Tứ ca Nhật Trường”. Không có các nhạc sĩ Tiền Chiến là những ca sĩ gốc Bắc cũng chìm nghỉm luôn.
Sau khi đặt xong một ly trà đường nóng, ông tài-xế taxi bị tụt máu mạn tính cất giọng hỏi Thừa Tân:
– Cái bài “Tôi đưa em sang sông” có sửa lời không anh?
– Theo lời của nhạc sĩ Nhật Ngân thì ban đầu ông viết “Đời Tôi là cánh chim”, sau này vô tay anh em Y Vân – Y Vũ thì hai ông này khuyên ông nên sửa thành “Đời Tôi là chiến binh” để phù hợp với hoàn cảnh loạn ly lúc bấy giờ. Vì vào thời điểm sáng tác bài này, cũng theo lời kể của ông Ngân, thì ông chỉ mới là một cậu học trò bị thất tình, chưa có đăng lính, cũng chưa biết đời mình sẽ trôi dạt về đâu nên mới viết nên câu “Đời Tôi là cánh chim”.
Đương nhiên vụ tranh chấp bản quyền bài này giữa ba người họ Trần đến nay vẫn chưa phân định rõ. Thành ra những gì tôi nói cũng chỉ dựa theo một mé mà thôi. Nghe mà tham khảo cho vui chứ đừng nên tin hay nặng lời với người trong cuộc quá.
Người khách uống chanh leo bất bình nói:
– Nhưng nếu đúng như lời ông Ngân nói thì hai anh em ông kia sai bét nhè rồi. Sửa giùm có một câu mà để nhạc sĩ Y Vũ đứng ra làm đồng tác giả với ông Ngân luôn. Nhạc sĩ Hoài Linh sửa bài giùm hoài mà có bao giờ tranh “làm cha” với tác giả gốc đâu.
Người khách mới vô hỏi:
– Mà tại sao phải sửa lời vậy anh?
– Thời điểm đó thì những bài hát có nội dung về người lính sẽ được cấp phép mau hơn, thành ra nhạc sĩ Y Vân, lúc bấy giờ là một trong những cây đa – cây đề của làng Tân Nhạc, đã khuyên một nhạc sĩ mới vào nghề là Nhật Ngân sửa bài hát theo ý mình. Và cũng vì thương đứa em trai, thành ra ông Vân đã để ông Vũ đứng tên chung bài hát này nhằm mục đích lăng-xê cho nó. Những ý này là do tôi tổng hợp từ các cuộc phỏng vấn của ba nhạc sĩ và thính giả yêu nhạc.
Nhưng, như tôi đã nói rồi, và nói hoài nói mãi, đây cũng chỉ là tin tức một chiều mà thôi, kể lại cho vui chứ không nên tin hay nặng lời với người trong cuộc quá.
Người khách hồi nãy kêu thêm một ly cà-phê đen đậm, rồi yêu cầu một ca khúc thật ít người biết.
– Đây là một sáng tác rất hiếm người biết của chàng lính biển Anh Thy, tên là “Hẹn Em đêm nay” và sẽ do Giao Linh ca.
Vừa hớp xong vài ngụm cà-phê, người khách hồi nãy lại hỏi:
– Có ai bị hiểu lầm là hát sai hoặc sửa lời không anh?
– Có. Nhạc của Trần Thiện Thanh. Bác Thanh giao cho người ta là lời gốc, còn bác lên biểu diễn lại hát lời mới. Thí dụ như bài “Từ đó Em buồn”, bài này có hai lời lận: Một là “Tin Anh gục chết giữa chốn nông trường xa cho tơ duyên bẽ bàng” và Hai là “Tin Anh gục chết giữa lúc băng giòng sông về đây xây ân tình”. Do đó đôi khi ca sĩ biểu diễn dòng nhạc của bác lại bị trách lầm.
Tưởng đâu bữa nay ế nhệ, dè đâu lúc xế chiều có nhóm phụ huynh nào đó tổ chức họp lớp để ôn lại tuổi mực tím của họ nên quán nhỏ của anh trúng đậm một chầu nước giải khát. Ba mươi sáu ly nước này đủ để trả một ngày công cho ba nhân viên rồi.
Sau một hồi quay như chong chóng, Thừa Tân mệt quá xá mệt. Anh lấy một viên thuốc trợ tim ra uống, rồi ngồi xuống mà kiếm dĩa hát mới để phục vụ nhu cầu nghe nhạc của thực khách.
Trời không phụ lòng người, Thừa Tân đã kiếm được một bài hát mà anh đã lâu không phát lại. Đó là bản “Tâm sự với Cây đàn” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh do Anh Khoa ca.
– Chú.
– Chi Yên Hồng?
– Con đói bụng quá chú.
– Bánh khoai tây chiên “Haitai – Honey French Butter”. Để sẵn ở trên kệ đó.
– Cảm ơn chú nghen? Con thèm dữ lắm mà ở nhà hổng cho ăn.
– Một bịch thôi đó.
Quỳnh Như cong môi:
– Chú…
– Chi Quỳnh Như?
– Con cũng ăn nữa.
– Nè.
Nói đoạn, Thừa Tân đi lấy bánh cho hai cô nữ sinh. Vừa làm vừa nói:
– Tôi làm cho hai cô mỗi đứa một ly hồng trà sủi bọt ít đường và nhiều món ngọt ăn kèm.
Quỳnh Như bắt chước khách mà yêu cầu:
– Chú tặng tụi con một bài đi chú?
– “Tuổi mười lăm” do Chế Linh ca, đây cũng là sáng tác của ổng luôn với bút hiệu “Tú Nhi”.
– Hoi, hổng chịu đâu, bài gì nghe rầu thấy mồ. – Quỳnh Như giãy nãy.
– Giờ muốn sao?
Quỳnh Như cong môi:
– Hai đứa con còn trẻ mà chú toàn chơi nhạc già hơn chú.
– Nghe xong muốn đòi tiền nước với bịch bánh ghê vậy hà.
Vậy là dưới sự mè nheo của hai đứa cháu người dưng, Thừa Tân mở bài “Vòng tay Nữ sinh” do song ca Don Hồ – Ngọc Huệ trình bày; nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ ca khúc “To Sir with Love” của đôi tác giả Mark London và Don Black.
Một người khách hỏi:
– Nhiều người chê giai điệu Bolero dữ lắm, anh nghĩ sao?
– Không có ý kiến gì với lời nhận xét này.
– Vậy anh nghĩ giai điệu Bolero thế nào?
– Thời nay không có lấy một người nhạc sĩ viết được bài hát theo giai điệu Bolero. Toàn là xào chẻ nhạc dân ca rồi trộn với những tiết tấu – âm giai trầm buồn, không có ra cái giống ôn gì hết. Thành ra nhiều người sinh ra trong thời buổi này đâu có hiểu thế nào là Bolero rặt ri, thế nào là Bolero “bánh tráng trộn”, nên mới đưa ra cái nhận xét phiến diện là dòng nhạc Bolero “kém sang”.
Một số nhạc sĩ thời trước không viết Bolero được nên đâu có lấn sân sang mảng này, thí dụ như Phạm Đình Chương, Phạm Duy, Hoàng Trọng, Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An,… Còn thời nay sáng tác không được cũng ráng nhét giai điệu vô…
Nói tới đây, Thừa Tân bật bài “Chiều thủ đô” của nhạc sĩ Khánh Băng qua phần trình bày của Thanh Lan. Đoạn phụ các nhân viên lau những bàn mà khách mới rời đi. Nhiều người làm đổ nước xuống sàn nên anh phải lấy cây ra lau sạch; mong rằng không có khách nào bị dị ứng mùi nước lau nhà mà anh đã chọn.
– Sao nãy giờ không có bài nhạc Lính nào vậy anh? Toàn yêu đương rầu rĩ nghe mệt quá!!
– Rồi, rồi, đổi liền đây! Anh muốn nghe nhạc của ai?
– Không phải nhạc sĩ quen thuộc mà vẫn hay được hôn?
– Năm ăn – Năm thua.
Tự nhiên Thừa Tân muốn tặng cho cha nội này bản “Thôi đừng đến nữa” của đôi nhạc sĩ Hồng Khánh – Trần Quốc Cường. Bữa nào chả ghé là anh được dịp lựa bài hát muốn rụng tay, ấy vậy mà chả vẫn chê lên – chê xuống, chê riết cái mỏ y như con cá trê.
Trước lúc kiếm được bản nhạc vừa ý thằng chả, Thừa Tân mở bài “Tâm sự Hàn Ni” do Thanh Lan ca; nhạc sĩ Vinh Sử đặt lời dựa theo giai điệu bộ phim Đài Loan “Thiên ngôn vạn ngữ”, về sau ông lấy luôn tên “Hàn Ni” làm bút hiệu. Thằng cha kia đã bỏ ra ngoài hút thuốc trong khi chờ nhạc phẩm này kết thúc.
– Có rồi anh ơi!
Thừa Tân chắp tay tạ ơn hương hồn hai vị Phạm Duy và Duy Khánh. Rồi mới bật bản “Dặn dò” của nhạc sĩ Phạm Duy và do “người con non nước Thần Kinh” Duy Khánh biểu diễn.
– Trời đất ơi, bài này còn nuỗng hơn mấy bài trữ tình mà anh vừa bật!
Thằng chả cười khẩy:
– Tôi khoái nuỗng kiểu Lính chứ không thích nuỗng kiểu Tình.
Thừa Tân bán nước không mệt mà ngồi soạn từng đĩa than – dĩa hát lại thở phì phò như con trâu.
Ngồi nghỉ đâu được mười phút hơn, lại có khách đến yêu cầu Thừa Tân chọn bài theo ý thích của anh ta. Người đàn ông trạc tứ tuần chắp tay xá anh ta một cái rồi nói để chút đi, giờ anh không còn hơi sức đâu mà lựa với chả chọn; bỗng dưng anh muốn tặng thằng cha trước mặt và thằng cha ngồi đằng đẵng bản “Thôi Anh về đi” của nhạc sĩ Thái Ngọc Sơn.
Nghe vậy, người khách hỏi sang chuyện khác trong lúc chờ ông chủ bớt mệt tim:
– Anh có nhận định nào về giới nhạc sĩ trẻ thời nay?
– Nhạc sĩ trẻ thời nay có thể học Phạm Duy, Anh Việt Thu, Hoàng Thi Thơ, Thanh Sơn, Phạm Thế Mỹ, Y Vân, Nguyễn Văn Đông,… Họ là những người đem làn gió mới vô dòng nhạc dân ca, vừa giữ được hồn dân tộc vừa làm cho giới trẻ yêu chuộng dòng nhạc này hơn.
Hai nhỏ cháu nói rằng muốn lên gác coi phim. Trước khi đi, mỗi đứa vòi ông chú mua cháo sườn ở hàng rong bên hông quán. Sẵn đang bịnh trong người nên anh đưa tiền cho tụi nó tự đi mua, rồi ôm ngực mà gấp gáp uống một viên thuốc trợ tim. Hai đứa cháu không cười giỡn nữa mà ngó ông chú bằng ánh mắt rưng rưng như sắp khóc. Nhưng sợ anh bực mình rồi khiến bệnh trở nặng nên tụi nó lủi thủi ra bên hông quán và ngồi ăn cháo ở đó luôn, chứ không đem lên trên gác như đã dự tính với nhau.
Người khách yêu cầu nhạc không thành thương cảm cho anh mà thôi không biểu kiếm nữa. Anh ta tính trở về chỗ ngồi, nhưng đã nghe tiếng của Thừa Tân:
– Khoan đã… Bài này được hôn?
Nói đoạn, Thừa Tân mở bài “Tâm sự nhỏ bé” do Trang Thanh Lan ca, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Bằng Giang. Rồi đi rửa máy đựng đá viên để lát nữa làm một mẻ đá mới.
Nhưng một cuộc điện thoại nặc danh đã khiến Thừa Tân bỏ quán nhỏ mà xách xe gắn máy phân khối lớn chạy ra điểm hẹn.
Chạy được một đoạn, Thừa Tân để ý thấy có hai chiếc xe gắn máy đang bám theo mình. Nhưng qua ngã tư thì hai chiếc ấy chia làm hai ngã, một sang trái và một quẹo phải. Thầm nghĩ mình coi phim nhiều quá nên sanh chứng hoang tưởng, anh mới tắp vô lề mà uống thuốc trợ tim, sẵn đọc lại tin nhắn ấy luôn.
– Ê!
Cũng may tay anh khỏe nên đã giựt lại được điện thoại trước khi bị cuỗm mất. Chiếc xe Wave chở hai thanh niên thảo khấu đó mất hút sau cú chạy cắt đầu xe đò một cách bạt mạng.
Anh bực bội vặn tay ga, rồi hòa mình vào dòng xe thưa thớt. Lúc bấy giờ hoàng hôn đã ghé thành đô, mưa lâm râm thấm ướt mặt đường, khói bụi xe cộ nhờ thế mà lắng dịu đi, vỉa hè chỉ còn lác đác vài bóng hàng rong bày bán các món ăn – thức uống. Đèn đường chỗ tỏ – chỗ đui, chỗ nào sáng đèn thì đó là nơi nghỉ chân của đám trẻ bụi đời hay người lái xe ôm, còn chỗ đui là dành để đổ rác trộm và nhà-xí cho bầy thú cưng. Thảng hoặc trong mùi mưa – mùi đất – mùi nhựa đường, đâu đó dư hương của những bông hoa cuối ngày không ai mua và những bông hoa đã bệ rạc vì mưu cầu sự sống ở kiếp nhân sinh. Ngang qua một cái cống rãnh, anh thấy một ông chú bụng phệ mặc áo thun ba-lỗ trắng và bận quần tà-lỏn đang lấy que cời bươi rác rến chặn hết miệng cống, chắc để lát nữa đường ống thông mà làm cho trong nhà bớt ngập nước dơ.
Đi đến đường Nguyễn Hữu Cảnh, anh lại thấy một trong hai chiếc xe gắn máy ban nãy; song thấy chiếc xe đó đậu trước đại lý xe “A Tấn” nên lại một lần nữa anh phớt lờ. Thể theo lời nhắn trong máy, kẻ đó sẽ đến gặp anh ở Quận Tư; mong rằng bên đó khứa này “đơn thương độc mã” chứ không phải kiểu “chó cậy gần nhà – gà cậy gần chuồng”.
Anh gặp lại chiếc xe thứ hai trên đường Cường Để. Bây giờ thì anh buộc phải lưu tâm. Anh chọn đại một tiệm ăn gần đó rồi tắp xe vô lề và bước quán đặt món. Trong lúc chờ nhân viên đem ra, anh nhắn tin cáo lỗi với người nặc danh vì không thể đến đó được. Thứ cho anh, anh ở tù oan bấy nhiêu năm là đủ rồi, không muốn thêm một ngày nào nữa đâu.
Đầu dây bên kia, Martin Cảnh chỉ còn biết kêu Trời. Anh ra hiệu cho hai viên cảnh sát chìm rút lui, rồi chán nản gọi điện cho Kiều Xuân mà hỏi thăm về Cha Phó Stephen – Đoàn Ngọc Mỹ. Người bạn đồng nghiệp của anh chắc hẳn đang mắc rước con nên mới trễ hẹn như vầy.
oOo
Lệ Thu đang ca bài “Hoa đầu mùa” của nhạc sĩ Lam Phương, một tình khúc rất hiếm ai biết của người trai tài ba – đa tình họ Lâm gốc Minh Hương.
“… Hoa buồn vì đời thiếu sắc hương
Lòng thẹn thùng khi tình đến vấn vương
Và Hoa cười khi mừng ánh Xuân sang
Xuân vui trong ngàn tiếng tơ đàn…”
Quế Trân chỉ tươi như nụ hàm tiếu chứ không đẹp như hoa. So bề nhan sắc, nếu đứng một mình, người dễ tánh sẽ khen nhỏ đẹp gái; nhưng đứng cùng Kiều Xuân, nhỏ lép vế một cách đáng thương, bao nhiêu nét Duyên mà nhỏ không có đều hiện hữu hết trên dung mạo Kiều Xuân. Thành ra nhỏ mới cắt tóc Tomboy, đã thường thường bậc trung rồi thì cho nó chìm nghỉm luôn, níu kéo làm chi cho tốn tiền và thời gian vô ích.
– Đến Vĩnh Long phải ăn bánh hỏi, nhứt là cháo lòng – bánh hỏi. – Khắc Xương vừa nói vừa chỉnh loa nhỏ xuống.
Cô Tư Lành chen vô:
– Nãy ghé lò “Minh Tâm” mua heo quay, vịt quay và bánh mì rồi.
– Thì để đó trưa ăn, giờ ăn sáng cái đã, tôi hổng ăn lấy sức đâu lái xe.
– Con gấu ngủ đông mấy tháng có chết đâu mà anh than quá.
– Nó ăn no cái bụng rồi mới đi ngủ chớ bộ.
– Đi với anh riết chắc tui lăn quá.
– Thì cô nhịn cho đẹp đi.
– Tui đã không đẹp mà còn nhịn nữa chắc giống con khô cá hố.
– Khô cá hố chiên mỡ heo ăn ngon lắm nghen cô… Ui da đau!
Y-Nhã Cường mệt mỏi ngoảnh mặt nhìn xuống đường. Đường sá Vĩnh Long và Đồng Tháp khác một trời một vực, một bên tương đối khang trang và một bên còn nằm lại cái thời “L’amant”. Nhưng cũng giống như bao con đường miền Tây khác, lộ thì có chút xíu mà hàng quán hai bên lại sát mí, lại thêm nạn chó thả rông hay già – trẻ băng qua đường tùy hứng nên hết sức khó chạy.
Sau bữa sáng ở quán cháo lòng – bánh hỏi, nguyên đoàn ghé homestay do người bạn đồng nghiệp với Khắc Xương mở; nhà của anh ta cũng có mảnh vườn sau hè y hệt ngôi nhà mà họ đã ở hai bữa trước, được cái gia chủ đã lau dọn sạch sẽ hết rồi.
Ngôi nhà có một trệt, hai lầu, một gác lửng và sân thượng. Cổng rào dựng bằng sắt hộp dạng đứng nhưng được quét lớp sơn giả gỗ màu trắng nên mới đầu con nhỏ nhà quê Tư Lành cứ ngỡ gia chủ gan thiệt, nhà vậy mà để hàng rào cây, nó cắt rào chui vô mấy hồi; nhờ Khắc Xương giải thích, nàng mới biết kiểu rào này rất thạnh hành bên trời Tây.
– Tui hổng thích kiểu rào này đâu. Tui khoái hàng rào trà, bông bụp hay cây tre dưới quê hơn hà.
– Tại bà ít tiền. Xây theo ý bà chắc gia chủ hổng còn cái quần xà-lỏn.
– Ờ, người giàu mấy ông sống bất an quá.
Sân trước trồng rất nhiều cam xoàn Trà Ôn, thanh trà Bình Minh và bưởi Năm Roi. Cả khoảng đất tỏa hương dịu dàng của giống cây ngọt trái lành vùng đất Chín Rồng mặn mà phù sa. Khắc Xương và Henrico Thạnh cùng nhau hái một giỏ đệm đầy vun; nghe lời giới thiệu của chàng mập thì sau hè còn có giống ổi chim ỉ*, tuy nhiều hột nhưng ăn giòn rụm, ngọt thanh đã lắm.
Stephen Đoàn ngắt bông bưởi trắng ngần mà cài lên vành tai trái của Kiều Xuân. Rồi lại gần Phước-Thạnh và Khắc Xương mà phụ hai chàng một tay.
Ở đằng này, chắc Sáu Quới đang muốn “Vượt lên chính mình” nên đã mở bài “Phiên chợ làng bên” do song ca Bùi Thiện – Trường My (đây là nghệ danh mà Họa Mi đã chọn trước khi cô nổi tiếng) trình bày lên nghe:
“… Xong công việc Anh đưa Em ra coi trước sân đình lớn
Đêm nay đình ca vui vui ghê, gánh hát hay mới về
Mai đến chợ Anh đưa Em đi mua sắm – may đồ mới
Khắp xóm làng khen Em xinh ghê
Chúc Anh đưa Em về…”
Kiều Xuân lại hỏi Stephen Đoàn:
– Bài này của ai vậy anh Mỹ?
Stephen Đoàn cúi mặt mà trả lời nho nhỏ:
– Không rõ nữa. Những cách đặt lời và nét nhạc khá giống với kiểu của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ.
– Em lại nghĩ nhạc sĩ là người Nam Kỳ, vì có nhiều chữ thông dụng trong này như “heo con”, “đơm bông”, “ra coi”, “mập tròn”, “trúng ngay”, “tát ao”, “thiệt mừng”,…
Ignacio Cường nhếch miệng cười:
– Chắc ông Sáu muốn tối nay ra “Phiên chợ làng bên” tá túc một đêm quá.
Louis Quế rùn vai đi một hơi vô nhà.
Bà Ái Liên dọn một mâm cúng đất đai ở sau hè. Dầu là nơi đất khách quê người, bà vẫn coi như là chốn chôn nhau cắt rún của mình mà trân trọng khôn cùng.
Chợt có những làn gió lao xao thổi qua lũy tre già dày cui, âm vang như tràng pháo tay nhiệt liệt mà hương hồn lưu dân gởi lại cho thế hệ sau. Có những dòng nước mắt đã rơi trên gương mặt “Nửa đời Hương – Phấn” của người đàn bà một thời lầm lạc.
Rồi không ai bảo ai, người nào cũng cặm một cây nhang vào lon gạo, như dâng một lời cảm tạ đến các bậc tiền nhân gầy dựng nên xứ Nam Kỳ.
…
Stephen Đoàn không ngủ được nên bỏ ra ngoài sân ngắm sao.
Tự nhiên quê mình ở đây mà phải mướn nhà người dưng ở, Stephen Đoàn cảm thấy tức cười khôn cùng.
Ban nãy Ignacio Cường rủ Stephen Đoàn đi chợ đêm cho khuây lãng, nhưng anh từ chối vì không muốn Kiều Xuân phải bỏ tiền ra mua cho mình thứ gì nữa.
Stephen Đoàn nhìn lên khoảng trời chi chít sao xa. Dù đã lên đô thị nhưng Vĩnh Long vẫn còn nhiều nơi tù mù và tăm tối như thời chưa phát minh ra điện đóm; giống như xóm này vậy, xóm này có một sòng bài, một sới đá gà và một động bàn đề, chung chi sao đó với cảnh sát địa phương mà toàn thây tới giờ, ngày nào cũng thấy đệ tử của Long Tứ, Lê Văn Duyệt và Lưu Bá Ôn đi nhan nhản như vắt rừng U Minh. Xuân vẫn chưa tàn hơi mà cái oi ả của ngày Hè đã mon men mò đến, ý là có gió thổi đó, mà da thịt còn rít và đổ mồ hôi, huống hồ chi là lúc đứng gió thì ngoại trừ mấy kẻ xỉn – người say ra, mấy ai mà nhắm mắt ngủ nổi. Đứng một hồi chùn chân mỏi gối, anh bèn tản bộ một vòng trong vườn nhà.
Vườn này trồng cam sành, bưởi da xanh, ổi ruột đỏ, điều Bình Phước và xoài Cát Chuông. Dù vụ mùa rất khá nhưng huê lợi thu về chẳng được bao nhiêu, có năm bán ế quá phải chia bớt cho bà con gần – xa và để gia đình đem về uống sinh tố – đắp mặt nạ. Thành ra chủ nhà không sợ họ hái trộm, còn khuyến khích họ ăn bớt nữa, chớ để lâu quá hổng hái thì cây sẽ bị èo uột và “chết sớm”.
Từ cái ghe cắm sào nơi bụi bần gần thửa rau xanh, tiếng ca của Duy Khánh trong bài “Mưa rơi trong đời” do chính ông sáng tác vang lên lồng lộng như “vọng từ dãy Trường Sơn vọng lại”.
Sẵn đang điên tình, Stephen Đoàn nâng khẩu cầm lên mà thổi theo giai điệu tình khúc của người trai xứ Quảng.
– Ủa? Sao tự nhiên bữa nay bài này có harmonica nữa cà?
Vừa tự bạch xong, người đàn ông bằng nghề giăng câu và soi ếch nhoài người ra ngoài mà ngó lên bờ lom lom; chừng thấy đứa trai trạc tuổi cháu mình, ông lão nghèo khổ phá lên cười thích thú, bởi lẽ cái thằng xấu trai mà thổi kèn hay ghê, vừa khít với giai điệu mà người ta đã soạn sẵn, không bị chênh phô một nhịp nào.
– Ê, bây ở đâu vô vườn nhà ông Năm Chiểu vậy? Con cháu ở xa phải hôn?
– Dạ không, con mướn nhà ở chơi vài tuần thôi.
– Đi đông hôn?
– Chi vậy ông?
– Cái nhà bự tổ chảng vầy một mình bây mướn sao nổi?
Stephen Đoàn cười hiền:
– À, cũng chục người.
Ông chú chỉ vô chỗ rộng cá mà cười mơn:
– Có gì mua ủng hộ cá ông câu nghen?
– Dạ.
…
Sáng hôm sau, biết JB Khải sẽ mần cá nên Thanh Liên không có mặt ở nhà. Chàng Tăng sĩ đi kinh hành nơi đường vườn xanh ngắt bóng lá và thơm thảo hương đồng cỏ nội; y bát và tay nải của chàng đã để lại phòng ngủ, có lẽ trưa nay chàng sẽ ra sau hè hái trái cây ăn.
Đường miệt vườn ở miền Tây hầu như đâu cũng như đó, bề ngang không tới sáu thước, hên lắm mới được trải nhựa đàng hoàng, còn không thì toàn là để mình trần hoặc làm ba chớp ba nháng – ăn chận ăn chẹn nên con lộ rỗ mặt hơn cả thằng nhỏ đang độ dậy thì. Đi đứng không cẩn thận tắm mương lúc nào không hay; có đứa xui rủi còn bị cây khô mục cành hay trái muồi rớt trúng làm đầu u một cục, những lúc ấy chỉ biết đứng ở ngoài đường mà dòm vô trong nhà chửi đông đổng vài tiếng cho hả cơn giận lẫy.
Từ bờ đất mía mọc cao vút, tiếng hát của Hoàng Oanh trong bài “Ru nắng” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng vang lên nghe buồn não nuột. Dù chưa từng nghe qua bản này nhưng vì nó hao giao giai điệu ru con mà thuở nhỏ má anh từng ca, nên anh chạnh lòng mà thấy sao thân thương lạ; vả chăng, nội dung trong nhạc phẩm đã khiến anh xúc động: Thuở trước má mắc võng ngoài hiên để cho con thơ có giấc ngủ ngon giữa tiết trời Việt Nam oi nồng, thuở sau má mắc võng ngoài hiên nằm để dễ bề ngó ra ngoài sân mà đợi thằng con trở về từ chiến trận. Bờ đất ấy cách khoảng sân bởi một con mương xâm xấp nước, đứng ở ngoài rào nên chẳng biết nó đục – hay trong; và vẫn như bao mé mương Nam Kỳ khác, vài cây dừa nghiêng mình xuống mặt nước, những buồng dừa nặng trĩu và vàng úa, cái màu vàng báo hiệu dừa già và cái nhà đã lâu không có ai coi ngó. Khoảng sân hiu hắt đượm buồn trong màu củi mục và lá khô rơi đầy.
– Cậu kiếm ai vậy?
Thanh Liên quay qua nhìn. Thì thấy một ông lão chỉ mặc độc cái quần xà-lỏn, nước da đen nhẻm như cột nhà cháy tương phản với mái đầu hớt cua bạc phơ.
– Không, tôi có kiếm ai đâu chú, chẳng qua nghe tiếng nhạc phát ra nơi bờ đất mà không thấy nhà này có người ở nên nán lại định thần thực – hư thôi.
– À, “Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm” thôi. Cái thằng Sáu Dực vô đây ở đậu rồi lấy đất trồng mía bán kiếm tiền. Mà cái thằng này cũng tệ thiệt, ở đậu mà cũng không lo sửa sang nhà cửa giùm người ta, để bầy hầy – dơ dáy vậy đó.
Thanh Liên chắp tay cảm ơn lời giải đáp của ông lão. Trước lúc từ giã, anh làm ấn thủ chúc phúc cho ông lão.
Chủ nhà chắc “đi Mũi Né” rồi, thành ra người trong xóm mới biết mà dỡ hàng rào vô lập “Ngõa Lương trại”. Bỗng nhớ đến cái “Quan tài vào Thu” ở chùa cũ của các Thầy, Thanh Liên che miệng cười tủm tỉm; từ ngày Minh Sư ra đi, Ma Tăng đến ở, nơi tôn nghiêm thành chốn kim tiền mạt Pháp.
“Xá chi một cái chùa quèn
Nẻo về Chánh Pháp còn thênh thang mà.”
– Thầy.
– Dạ?
– Thầy có phải Sư hôn?
– Dạ, ngoại muốn coi con là sao cũng được hết.
– Tưởng Ni Cô không hà. – Ngoại cười móm mém. Rồi nắm lấy tay chàng Tăng sĩ Theravada mà rằng. – Vô nhà ăn cơm với ngoại nghen con. Rồi tụng giùm bài Kinh nào để cầu siêu cho ba má của ngoại nha.
Thanh Liên bật cười. Anh chọn bài Kinh mà Tôn giả Xá Lợi Phất đã tụng cho người mẹ tiền kiếp và người mẹ đời này của Ông; cái tích truyện Mục Liên báo hiếu đang hiện hành thời nay thực ra nhân vật gốc là Xá Lợi Phất, không hiểu bằng cách nào mà sau này lại sửa tên thành Mục Kiền Liên. Ngoài ra, anh còn hồi hướng công đức của mình cho thân nhân quá cố của ngoại.
Ngoại cảm ơn rối rít trước sự giúp đỡ nhiệt tình của người Tăng sĩ đẹp đẽ. Trong túi không còn bao nhiêu, nhưng bà vẫn lận ra để lấy tiền.
– Con không có lấy tiền, ngoại ơi. Ngoại mời con ăn cơm là con mang ơn lắm rồi.
Ngoại nhăn mặt:
– Cơm có gì đâu ăn hả con? Ngoại già răng cỏ yếu nên ăn gì cũng được, con còn trẻ…
– Dạ không, con đi theo đường tu mà Tôn giả Đại Ca-Diếp giữ lại, thành ra cho gì ăn nấy, con không đòi hỏi chi đâu.
Vậy là hai bà cháu lên bộ ngựa ngồi ăn trưa với nhau. Trước lúc bưng chén lên ăn, ngoại nghiêng đầu đặng nghe đứa trai bằng tuổi cháu mình tụng Kinh cho rõ hơn.
Mâm cơm chỉ có nải chuối xiêm, ơ kho quẹt, rổ rau sống và dĩa dưa mắm mặn chằn; nhưng hai bà cháu ăn vẫn ngon lành. Sau hè bầy gà mà ngoại nhận nuôi giùm một ông cán bộ trên thành phố đang trốn nắng trong mái hiên nhà, con nào con nấy béo mẫm và chắc thịt lắm, vì sợ ăn phải gà Tàu nên nó giao cho ngoại giữ bầy gà với khoản tiền công cũng kha khá, nhờ vậy nên ngoại chưa đến đỗi đói chết.
Ăn cơm xong, Thanh Liên xin phép ra về.
Ngoại tiễn chân chàng Tăng sĩ ra đến ngoài cổng mới chịu vô trong nhà giữ gà. Cái bóng của cụ nom còn mong manh hơn cái bóng của bầy gà.
Đi ra tới đầu lộ thì vừa hay chiếc xe của Henrico Thạnh cũng vừa trờ tới, nhưng người cầm lái là Ignacio Cường chứ không phải chủ nhân chiếc xe.
– Lên xe đi Liên. Cơm nước gì chưa? – Vừa nói, Y-Nhã Cường vừa đưa nón bảo hộ cho người bạn khác Đạo.
Trong lúc cài nón, Thanh Liên mỉm miệng cười mà rằng:
– Ăn rồi.
– Bữa nay ông Thạnh nấu canh chua cá lóc ngon lắm. Má anh xào sườn coi bộ hấp dẫn lắm.
– Anh chịu nói, chịu cười rồi đó Cường.
Ignacio Cường phì cười.
– Bây giờ còn John “Tẩy Giả” mà thôi. Sau lần bị huyền chức oan, anh ta như con chim sợ cành cong, gặp ai cũng lo họ tính kế mà gạt mình ra khỏi hàng Giáo Phẩm hết, thành thử gặp bạn bè đồng tu đều khép miệng không nói, không cười giỡn gì.
Chiếc xe gắn máy phân khối lảo đảo theo tay lái không vững của chàng Y Nhã.
– Vậy mà tụi tôi không phát hiện ra…
– Tôi là bác sĩ Tâm Thần mà. Điều đáng sợ nhứt ở trên đời này, theo thiển ý của tôi, là một người trở nên đa nghi và trốn tránh cuộc đời chỉ vì bị người ta lấy oán báo ân hay vu oan – đổ vạ; bởi vì điều đó đã khiến cho cõi Ta-Bà nhiều thêm “Linh hồn tượng đá” và ít đi những thiện nam – tín nữ nhân hòa.
– Nhưng mà ảnh làm vậy tôi thấy kỳ lắm.
– Anh không sợ mất Chức Thánh nên anh mới bị nhiều người ghét. Bởi lẽ họ không thể lấy Chức Thánh làm mồi thơm để buộc anh im miệng trước mọi bất công và sai trái nếu có của Giáo hội lẫn xã hội.
– “Được cả thế gian mà mất đi linh hồn của mình” thì được lợi ích gì hả anh?
– Thành ra, Đức Phật mới nói chiến thắng vĩ đại nhứt là hàng phục được tâm can của mình theo đường Ngay lối Thiện. Mình chiến thắng người ta rất dễ, nhưng “đem quân” trừ bỏ thói hư tật xấu của mình là chuyện khó còn hơn bắc thang đi lên trời. Anh đã buông bỏ được cái tâm Tham của mình, nên anh đã thắng được họ một trận.
Đức Cường bật cười:
– Cảm ơn lời khen của anh. Còn anh, anh không muốn nổi danh trong Phật Giáo sao?
– Không, viết ra ba cái cuốn Tạng Luận chỉ tổ khiến cho Phật tử bị mê lầm. Có một số Thầy rất giỏi, có thể được coi là A-La-Hán của đời này, nhưng có rất ít người hiểu được Tạng Luận của các Thầy ấy, phần đông coi xong diễn giải trật đường rầy xe tăng, nhóm còn lại dè bỉu và bỉ bôi vì không hiểu ẩn ý trong lời phát biểu của mấy Thẩy.
Do trưa trờ trưa trật nên đường rất vắng xe, Y-Nhã Cường nổi máu viễn Tây mà chạy hơi nhanh một xíu. Chiếc xe gắn máy phân khối lớn lướt nhanh trên lộ quê như con chiến mã bị đứt dây cường.
– Ignacio de Loyola, Thánh làm ơn làm phước chạy chậm giùm con. Chạy một hồi Thánh thì lên Nước Trời, con thì về Niết Bàn đó.
Y-Nhã Cường bật cười ha hả, rồi cũng chịu vặn tay ga xuống. Chiếc xe giữ tốc độ hơi nhanh một chút chứ không phải là quá sức chịu đựng như ban nãy.
– Hồi xưa Phá Vân cũng chạy nhanh như vậy. Nguyên đám la riết mới chịu chạy ở mức vừa phải.
– Xuất thân của ảnh là vận động viên đua xe chuyên nghiệp mà. Mà nè, hồi xưa ảnh đóng phim nào vậy, giới thiệu một bộ cho tụi tôi coi được không?
Sau khi nói tên của bộ phim, Thanh Liên vui vẻ giới thiệu:
– À, phim này ảnh đóng vai tài-xế của nam chánh, cũng được đâu hai chục phút hơn.
Từ ngày có Sáu Quới và Út Thạnh, ngôi nhà tưng bừng hẳn lên. Đi đâu cũng nghe tiếng cười nói xôm tụ và ca hát um sùm của họ. Hàng xóm thấy hai người dễ gần nên hay qua mời nhậu hoặc xin trái cây.
Thanh Liên lên phòng khách mà quỳ gối bóp chân cho má đỡ nhức mỏi. Trong lúc ấy, những người kia ngồi coi phim mà Phá Vân đã tham gia; tuy chỉ là vai rất phụ nhưng cũng được ưu ái thời lượng góp mặt khá nhiều, nghe đâu cát-xê cũng cao lắm do phải đóng thế những cảnh nguy hiểm cho tuyến nhân vật chánh.
– Phá Vân giỏi vậy mà không bứt lên nổi, uổng thiệt. – Khắc Xương tặc lưỡi.
Quế Trân bình phẩm:
– Diễn còn hay hơn mấy cha nội diễn viên Tàu thời nay. Vẻ ngoài ăn đứt luôn. Vốn tiếng Anh cũng khá.
Thanh Liên tiếp:
– Ảnh còn học tiếng Quảng Đông để đóng phim nữa.
Chợt nghe ngoài lộ có tiếng rao, “Kem đây! Kem đây! Kem ký đây! Kem sầu riêng! Kem đậu xanh…”, hai mắt chàng cư sĩ mập sáng bừng, chàng quýnh quáng chạy ào ra ngoài mà hú xe kem ở lại; thiếu điều ổng muốn hát “Anh ơi Anh ở lại, ở lại với Em đi Anh…” Chừng thấy chú bán kem dừng xe trước cổng, mới yên tâm chạy vô hỏi có ai ăn kem không. Sau một hồi lóng tai nghe, anh chạy ra cổng mà mua bánh mì kẹp kem và vỏ sò kẹp kem, không quên mua thêm kem sầu riêng, kem đậu xanh và kem dừa – Mỗi thứ một ký.
– Ê, uống thuốc chưa Cường? – JB Khải hỏi trong lúc đón lấy ổ bánh mì.
Y-Nhã Cường toan đứng dậy đặng đi lên lầu lấy thuốc, nhưng đã thấy Stephen Đoàn đưa bọc thuốc cho mình và nói:
– Để tôi xuống rót cho anh ly nước.
– … Cảm ơn anh.
Stephen Đoàn vỗ vai bạn mà gật đầu cười ủ rũ.
Sau khi buổi chiếu phim kết thúc, ba người đẹp và Khắc Xương về phòng ngủ trưa.
Thanh Liên biết sóng gió sắp ập đến nhưng vẫn thản nhiên ngồi xếp bằng nơi ngưỡng cửa chánh mà chờ đợi. Trời ui ui, muốn mưa mà mưa không nổi nên hầm hì kinh khủng, những giọt mồ hôi đã lấm tấm trên gương mặt thanh tú của anh.
Nhóm anh em Công Giáo đang ngồi trên ghế sô-pha mà thảo luận về chủ đề bổn Đạo. Riêng Stephen Đoàn mở đài radio do Richard Lãm làm xướng ngôn viên lên nghe, vừa nghe vừa lần chuỗi Mân Côi.
Ước độ nửa tiếng sau, buổi thảo luận kết thúc.
Trong lúc đợi Henrico Thạnh bưng mâm trái dừa lên, JB Khải ngó Thanh Liên mà khó nhọc mở miệng:
– Tôi muốn hỏi anh câu này được không Liên?
– Sadhu.
– Anh nghĩ sao về Thiền?
– Vậy anh nghĩ sao về Bí Tích?
– Đạo tôi, đương nhiên tôi biết rồi.
Thanh Liên mỉm miệng cười mà gật đầu thật nhẹ:
– Đạo ai người nấy biết. Mắc gì phải đem ra tranh luận để làm mích lòng nhau. Không thích, không tin, không hiểu thì đừng làm theo, “Chỉ có thế thôi”.
Ignacio Cường ngó JB Khải trong ánh mắt chờ đợi.
JB Khải nói tiếp:
– Anh đừng có tránh né câu trả lời của tôi, tôi hỏi sao xin anh hãy đáp lại như vậy đi.
– Đấng Thế Tôn dạy tôi rằng nếu gặp một người ngoại Đạo đặt những câu hỏi về Đạo mình mà không có thiện ý thì tôi có hai phương hướng giải quyết: Một là im lặng và Hai là lảng sang chuyện khác.
JB Khải nhếch miệng cười:
– Tại sao?
– Anh đâu có muốn nghe tôi trình bày. Anh chỉ muốn niềm tin vào Giáo lý mà anh đã được tiếp thu thêm vững mạnh và để củng cố cho cái thuyết Thiền là trò chơi của ma quỷ mà thôi. Tôi nói sao, anh cũng cho là tôi chống lại của đức tin của anh hết, thì tôi nói làm chi?
JB Khải bỗng chốc lúng túng.
– Khi anh muốn tìm hiểu một tôn giáo nào khác, xin hãy bỏ đức tin của anh xuống và đón nhận mọi giáo lý của tôn giáo khác. Như tụi tôi chẳng hạn, dù Ấn Độ Giáo coi Đấng Thế Tôn là biến thân của Chúa Vishnu, tụi tôi không nói nặng – nói nhẹ họ mà lại xem những lời họ nói là bằng chứng củng cố để mô tả về vẻ bề ngoài khi còn tại thế của Đức Phật mà thôi. Tôi vẫn còn nhớ một người ngoại Đạo đem tấm hình một ông sư Tây Tạng có dung mạo hơi khó coi ra mà quả quyết đây là khuôn mặt thật của Đức Phật, và tụi tôi cũng chỉ phản bác bằng những luận chứng mà mình biết, dựa trên nhân chủng học thì Đức Phật là người Nepal sống ở Ấn Độ cổ đại và có dung mạo rất giống Chúa Vishnu, mà Chúa Vishnu lại luôn được Ấn Độ Giáo mô tả là một người đàn ông cực kỳ đẹp trai và có ánh mắt rất đỗi từ bi, dễ mến.
– Sao anh có thể biết chắc đó là Ấn Độ mà không phải Tây Tạng?
– Anh có thấy gương mặt của Đức Đạt Lai Lạt Ma và các Tăng sĩ Mật Tông – Kim Cang Thừa không? Anh đã coi phim Ấn Độ mà má tôi đã giới thiệu rồi đúng không? Vậy anh thấy thế nào?
JB Khải nhất thời không biết trả lời sao nên mím môi im lặng.
– Cái chuyện trong Đạo cần anh lên tiếng thì anh không lên tiếng, cái chuyện ngoại Đạo không đáng để anh hao hơi tốn sức thì anh lại xía vô.
– Anh đừng nói xằng!
– Tại sao anh biết Cha Thành giả đem đất đi bán mà chỉ suốt ngày nói câu, “Hãy cầu nguyện cho Đức Cha”? Tới chừng ông ta sợ anh đi tố cáo mới gài bẫy anh và cô Theresa Thảo để anh bị treo Chén, anh mới quýnh quáng lên tiếng và tung bằng chứng ra nhằm cứu vãn tình hình. Anh ham Chức Thánh đến độ anh đồng lõa với kẻ giả hình luôn và làm chứng dối cho ông đó luôn. Anh đã vi phạm bao nhiêu điều răn rồi hả anh Trương Tấn Khải? Và đức tin của anh chỉ nằm ở một “Cái Chén” thôi sao?
Nhóm anh em Công Giáo muốn mở miệng binh người bạn cùng Dòng, nhưng không sao phản bác được luận điểm của Tăng sĩ Theravada.
– Đức tin có lớn mạnh hay-không không nằm ở chuyện lần hạt cầu nguyện, mà là phải lên tiếng chống lại bất công và nêu ra những điểm nghi ngờ mà mình cho rằng có thể gây nguy hại đến Giáo hội… Mà thôi, tôi góp ý kiến với anh làm chi, tôi với anh khác Đạo và đường hướng tu hành mà.
Nói đến đây, Thanh Liên đứng dậy rồi cúi đầu chắp tay mà thưa rằng:
– Xin phép các anh, tôi lên phòng hành Thiền đây.
Đợi cho Thanh Liên đi rồi, Ignacio Cường nắm vai JB Khải mà gằn giọng hỏi:
– Anh ham “Cái Chén” tới độ nào mà để cho Cha Thành giả lộng hành thêm được năm năm hả?
JB Khải đanh mặt nhìn Ignacio Cường:
– Tôi chưa có bằng chứng nên không thể tố giác ông ta sớm được.
Ignacio Cường nhếch miệng cười:
– Hay quá ha? Trùng hợp ghê ha? Tới chừng sắp bị treo Chén cái anh có cả núi tài liệu chứng minh ổng giả mạo liền.
JB Khải quát lên:
– Có ai gởi cho tôi mà, thề có Chúa chứng giám, lúc đó quýnh quá chưa kịp kiểm tra lại xấp liệu nên tôi mới chuyển luôn cho Đức Cha Thái!
– Anh quýnh cái gì?
– Bây giờ anh tin tôi hay là tin thằng cha ngoại Đạo đó?
– Tôi tin người nào nói thẳng cho tôi nghe, không có vòng vo Tam Quốc để mua lấy lòng thương hại và tha thứ của kẻ khác. Trả lời vô vấn đề đi!
JB Khải liếm môi rồi mới trả lời:
– Đúng như lời thằng cha đó nói, tôi muốn…
– “Thương lượng” phải không? Y như “trao đổi” với nhau…
JB Khải gật đầu yếu xìu.
– Mỹ vì anh mà cắt tay lấy máu viết huyết thư. Tôi vì anh mà bị chém một nhát chí mạng trên lưng…
– Vậy thì giờ anh muốn tôi sao?
– “Có thì nói có. Không thì nói không.”
Vậy là JB Khải mời anh em đồng tu ngồi xuống ghế, rồi bắt đầu cất giọng thuật lại hết mọi chuyện. Té ra từ lúc được bài sai về Giáo xứ St. Pio, anh đã ngờ ngợ Cha Chánh xứ có điều chi bất thường, bởi lẽ Linh mục gì mà một câu Kinh Thánh cũng không biết, suốt ngày chỉ biết càm ràm, than Trời – trách Đất và vẽ chuyện để moi tiền con Chiên, nhưng vì mới được cử đi quản xứ nên anh không dám làm mích lòng Cha Lớn thành ra ông đó làm gì cũng ngó lơ luôn. Đến chừng Stephen Đoàn xuống phụ xứ thay cho một Linh mục dòng Phan Sinh, thấy Stephen Đoàn có vẻ được ông đó tín nhiệm nên anh càng dè chừng, không muốn chung đụng lâu với người phụ xứ mới tên Mỹ. Được một thời gian nữa, Ignacio Cường đến đây phụ xứ; với phương châm “Chúa là trên hết”, Y-Nhã đã khiến ông đó căm ghét và thù anh ta ra mặt, anh ta cũng đâu có vừa, hễ thấy ông đó làm bậy là chỉ vô mặt la lên liền, riết cái Giáo xứ thành “chiến trường anh bước đi” của hai người.
– Ngưng. Cho tôi ý kiến cái đã. – Louis Quế giơ tay.
– Chi đó Thầy Sáu? – Henrico Thạnh hỏi mà mặt mày chằm dằm như ai ăn hết của.
– “Sao không chết người trai khói lửa, mà chết người gái nhỏ hậu phương?”
– Trời ơi giờ này mà ổng còn làm Trần Thiện Thanh nữa! – Henrico Thạnh la làng.
Stephen Đoàn ngại ngần lên tiếng:
– Tôi nhớ đoạn này đâu phải của Trần Thiện Thanh, mà là Duy Khánh…
– Không có Khánh, Thanh gì sất. Một là vô đề, hai là câm miệng lại cho tôi. – Ignacio Cường long mắt lên nhìn các anh em cùng Dòng. – Còn ông Bollywood này, ý kiến chi thì nói phứt ra, ca nữa là tôi vạt mỏ ông liền.
– Ý tôi là sao ổng hổng kiếm cách huyền chức anh mà lại đi hại JB Khải?
– Có lẽ ổng nghĩ Khải đứng về phe tôi nên muốn triệt bớt vây cánh trước khi ra tay diệt trừ.
Louis Quế bật cười:
– Ai ngờ Khải nhà ta đứng chàng hảng, hổng theo bên nào. “Nhìn ông kia muốn theo anh này. Nhìn anh này muốn theo ông kia. Nhìn hai bên hổng muốn theo bên nào…”
Y-Nhã Cường giơ tay lên dá:
– Ông mà còn chế lời bài “Mùa hoa anh đào” của Thanh Sơn thêm một câu nào nữa là tôi quánh thành “Tím cả rừng chiều” của Thu Hồ liền.
Đợi cho mấy người kia dằn tiếng cười xuống rồi, JB Khải mới kể tiếp:
– Sau đó “Tôi với trời bơ vơ”. Tự nhiên một đống hình chụp tôi với cô Theresa Thảo ở đâu đổ xuống, rồi tôi bị Đức Cha Thái huyền chức ngang hông.
– “… nên từ đó Em buồn.” – Louis Quế đệm vô. – Dạ, con hổng có ca nữa, Cha Cọp đừng có vạt mỏ con.
Ignacio Cường đỡ trán mà rằng:
– Ông họ Huỳnh giống tôi, chớ đâu phải họ Trần mà bạ đâu cũng hát nhạc của ông Thanh vậy.
Henrico Thạnh vỗ vai Thầy Sáu mà thương cảm nói:
– Mơi mốt tui hỏi chỗ Thầy Dương khám bịnh để ông biết đường mà tới đó lấy thuốc uống nha? Để lâu quá bị biến chứng á. Phải vô Chợ Quán định cư đó.
Ignacio Cường biết JB Khải đã kể hết rồi nên anh “tuyên ngôn độc lập” rằng tan hàng. Rồi đi cà nhắc lên lầu, cử thuốc ban nãy đã làm mắt anh díp lại như bịch nylon bị hơ lửa cho dính lại.
Stephen Đoàn cũng lấy cớ cảm nắng để về phòng ngủ một giấc.
– Rồi sao? – Henrico Thạnh đứng chống nạnh mà hỏi JB Khải và Louis Quế.
Louis Quế cười tươi:
– Tan hàng.
JB Khải cũng đồng tình với Louis Quế.
Về phần Ignacio Cường, anh chưa ngủ được khi chưa nói lời xin lỗi với Thanh Liên. Thanh Liên vẫn còn đang ngồi thiền, nét mặt không có một xíu cảm xúc bực mình hay tức giận, như thể mặt hồ ngày đứng gió, không có gì nán lại hay làm xao động nơi đó cả.
Trong lúc chờ đợi, Y-Nhã Cường với tay mở vài trang Kinh Phật để coi chữ Pali viết như thế nào. Lăn quằn lít quịt, càng nhìn càng cảm thấy rối mắt, không hiểu sao Thanh Liên lại có thể nhớ mặt chữ và đọc ron rót được.
Chừng cây kim dài nhích sang số sáu, ý chỉ ba giờ rưỡi chiều, Thanh Liên mới kết thúc buổi hành Thiền. Anh mở nắp ly sứ mà hớp một ngụm trà tim sen.
– Liên.
– Câu chuyện mà tôi kể anh hôm bữa anh còn nhớ không?
– Về suy diễn á hả?
– Ừm. Để tôi kể rõ hơn cho anh nghe để anh thấy được bài học khác trong câu chuyện này.
Ignacio Cường làm cử chỉ mời người bạn ngoại Đạo trình bày.
– Sau khi hay tin, Đức vua hết sức sùng đạo nên muốn thiêu chết hoàng hậu, nhưng Đấng Thế Tôn đã can ngăn hết lời, ông ta mới nguôi ngoai mà chỉ phế cô này xuống hàng thứ phi. Tức giận vì bị mất ngôi hoàng hậu, cô ta mới thông đồng với người tình mà bày kế soán ngôi vua. Lần này ông ta không còn kiềm chế được lòng sân hận nên sau khi biết được âm mưu đó liền đem đôi này ra ngoài sân thiêu sống. Tới chừng xử xong mới ân hận vì mình đã phạm phải Nghiệp Ác quá nặng.
Ignacio Cường mở bừng mắt.
– Con người chỉ phản kháng khi bất công đổ lên đầu thôi. Còn dẫu phẫn uất giùm người dưng thế nào đi chăng nữa, phần đông cũng chỉ lên tiếng vài hôm và nguôi ngoai rất mau. Đức Phật là người mà ông ta tôn sùng, nhưng ông ta không vì Ngài ấy mà xuống tay báo thù giùm, trái lại còn dựa vào lòng từ bi độ lượng của Ngài ấy mà giúp cho người tình yêu dấu có một con đường rút rất êm. Đến lúc ông ta bị hại, hỡi ôi những gì mà Ngài ấy khuyên nhủ thuở trước đều bị ông ta gạt phăng hết, trong đầu ông ta không có chi khác ngoài sự báo thù.
– Anh làm tôi nhớ tới một tập “Đô-rê-mon”: Nô-bi-ta kể lể với Đô-rê-mon rằng bầy chuột lộng hành quá, phá phách khắp nơi trong phòng ngủ. Đô-rê-mon khuyên Nô-bi-ta nên đừng có tùy tiện giết chóc, này nọ – nọ kia lắm lời nhân nghĩa; tới chừng biết mấy con chuột đó đã ăn hết chỗ bánh để dành của mình, thì Đô-rê-mon lại lấy trái bom ra mà dự định phanh thây chúng.
– Chuyện của JB Khải cũng vậy.
– Tôi hiểu rồi. Mà, thay mặt Khải, cho tôi xin lỗi anh nghe.
Thanh Liên bật cười mà xua, xua tay biểu:
– Lỗi – Phải gì ở đây mà phải xin. Ảnh bảo vệ đức tin của ảnh là đúng mà. Và tôi bảo vệ đức tin của tôi cũng đâu có sai.
– Anh nghĩ câu “Người ngoài cuộc sáng suốt hơn người trong cuộc” có đúng không?
– 50/50. Đôi lúc người ngoài cuộc thêm mắm dặm muối khiến người trong cuộc lao đao hơn.
– Mà, câu chuyện anh vừa kể cũng là “Truyện cổ Phật Giáo” hả?
– Ờ, còn trong kinh điển thì viết lại hoàn toàn khác.
Y-Nhã Cường không hỏi han chi nữa. Anh bắc ghế ngồi cạnh cửa cổ mà ngó xuống sau hè thơm hương cây trái miệt vườn, lòng miên man suy nghĩ những chuyện xảy ra với mình khi ở gần Cha Thành giả, và căn cớ làm sao mà cô Hai Liễu gặp nạn mà không ai trong xứ hay biết – để đến nông nỗi như ngày hôm nay.
Ở dưới lầu, Sáu Quới đang liên lạc với Cha Đa-Minh Phong để xin số điện thoại của Mẹ Bề Trên Maria Hòa.
Bản nhạc chuông mà cha đỡ đầu của chú chọn là bài “Dominique” do song ca Debbie Reynons và Mary Ford trình bày; đây là một ca khúc về Thánh Đa-Minh (Dominic de Guzmán) tuyệt hay và đẹp đẽ.
– Gì đó con trai? Bị vợ ăn hiếp hả?
– Ba có số của Má Hòa hông? Mẹ Bề Trên chung thời với Ba và Cha Vinh-Sơn Trung và Cha Phan-Sinh Hùng đó.
– Có… Nhưng mà… sao tự nhiên xin số của bả?
– Ba ơi…
– Sao?
– Nếu như Ba thấy một Linh mục “Tôi bước vào Yêu” thì Ba tính sao Ba?
– Xách đầu nó về tu viện mà bắt tĩnh tâm một thời gian rồi mới quyết định coi nên để nó hồi tục hay trở lại với đời sống mục vụ.
Louis Quế thở dài thườn thượt.
– Ủa mà ai thương thằng Cường nổi vậy con?
– Hổng có ai thương nó hết Ba ơi. Thằng Mỹ kìa.
– Trời đất ơi!!!
Tiếng la thảng thốt của ông Thầy Dòng già nua đã khiến cả hai bên nhốn nháo. Bên cụ thì tưởng đâu cụ bị trụy tim nên ba chân bốn cẳng chạy lại cứu; còn bên chú thì tưởng ba vợ mắng vốn vì bỏ con gái ổng đi chơi nên xúm lại hỏi han chú đủ điều.
– Trước khi xỉu, cho con số điện thoại của Má Hòa đi.
– Mày có hiếu quá há? – Một ông Cha Cố trả lời thay thằng bạn của cụ. Nó hiện đang ngồi chết trân trên ghế, mấy đứa kia và xấp nhỏ đang cuống cuồng như ong vỡ tổ.
Vừa có được số của Má Maria Hòa, chú Sáu liền ra ngoài xe mà khóa cửa lại để không bị ai nghe lén. Cha đỡ đầu của chú thì khỏi cần lo cho ổng, cái tánh khoái làm màu của ổng trước giờ đã khiến cho mọi người bị đứng tim bao nhiêu phen rồi nên lần này chú chắc mẩm ổng cũng chẳng sao đâu.
Quả vậy, sau hơn nửa tiếng nói chuyện với Má Hòa, Cha Đa-Minh Phong nhắn tin cho ông Thầy Phó Tế hay rằng ba mày vẫn còn sống và hứa sẽ giữ kín chuyện thằng Mỹ – giữ được tới đâu thì hay tới đó.
oOo
– Ba tôi hồi trước còn gặp vợ nhạc sĩ Vinh Sử ngồi bán bánh tét nuôi chồng nữa, có nán lại mua ủng hộ vài đòn và hỏi han tình cảnh của ông. – Người có bút hiệu “La Vie” khơi mào.
Bữa nay Xương Tuyết đi gặp những người bạn trong văn đàn ở một quán cơm bụi tọa lạc tại Bình Dương. Thằng nào thằng nấy đều không có sách phát hành trên thị trường vì ghét cái lề thói kiểm duyệt xứ này.
Gọi xong xuôi hết rồi, người có bút hiệu “Chai” kể:
– Tôi có một người anh Văn đàn, giờ thì thành người dưng rồi, hồi tôi mới vô nghề ảnh đọc văn của tôi cái ảnh phán, “Mày viết văn giống Bắc Kỳ quá. Sửa lại cho tao.” Bẵng đi chục năm sau, tôi gặp lại ảnh; hỡi ôi “Gà chiên” thì nói “Gà rán”, “Mặc tã” thì nói “Đóng bỉm”, mấy chữ đệm “Nghen, nhen, hen, hén, hà,…” đã sửa thành “Ý, nha, nhá, nhé, nhỉ,…”, chưa kể còn quen luôn người yêu là Bắc Kỳ nữa. Tôi vẫn viết văn bằng giọng Nam – Trung – Bắc; nhưng khẩu âm của tôi luôn ở miệt thứ Cà Mau và không bao giờ lời ăn tiếng nói của tôi lệch khỏi xứ Đàng Trong.
Người có bút hiệu “Ham” gật đầu:
– Người quen mà còn thay đổi thì huống hồ chi những người chưa từng quen biết ngoài đời.
Nhân viên dọn canh chua lên bàn.
Trong lúc đó, Xương Tuyết thuật lại chuyện đã thấy:
– Tôi thấy trên mạng có mấy cái clip dân Tàu sang Ấn du lịch rồi lên bài chê bai ẩm thực xứ người ta. Có ông còn biên bài theo kiểu “Đông Á bệnh phu” phát gớm như vầy: Nhìn coi dân Ấn Độ thèm ăn hoành thánh – sủi cảo của nước mình kìa.
La Vie cười hỏi;
– Vậy anh nghĩ đồ ăn đường phố xứ Ấn sạch hay dơ?
– Ở đâu mà không có chỗ sạch – chỗ dơ, nên đâu thể nói sạch hay dơ được. Chỉ thấy không hiểu mình đi du lịch thì ghé chỗ sạch mà ăn, mắc mớ gì phải sà vô chỗ dơ ăn uống và ghi hình.
Ham vừa lấy chanh chà đũa vừa hỏi:
– Sao mình biết sạch hay dơ được anh?
– Trời ơi, họ mở quầy lộ thiên, bao nhiêu công đoạn đập vào hai con mắt của mình chần dần mà không phân định được sạch hay dơ thì tôi nghĩ nên đến bác sĩ Nhãn Khoa và Thần Kinh điều trị đi.
Chai lắc đầu cười khinh:
– Vậy là cố tình lựa chỗ dơ để đăng bài dìm hàng nước người ta rồi.
Người có bút hiệu là “Nhện” lên tiếng:
– Nhưng bên Tây phương cũng bắt đầu nở rộ phong trào kiếm quán dơ vô ăn để ghi hình rồi. Chỉ vì sự nổi tiếng mà đem cái mạng của mình ra thí. Ngu gì đâu mà ngu thấy thương.
Ham hỏi:
– Anh nghĩ sao về chuyên chính vô sản và thế giới đại đồng?
Xương Tuyết trả lời:
– Tôi nghĩ anh nên coi bộ phim “1984” là tự khắc có được câu trả lời của mình. Bộ phim này được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn George Orwell, đồng thời là tác giả cuốn “Trại súc vật”. Đây cũng là bộ phim có những cảnh lõa thể trần trụi mà tôi không thấy khiêu dâm, trái lại rất đậm nét nghệ thuật ẩn dụ.
La Vie quay qua vỗ đùi anh Ba Hói:
– Anh nghĩ sao về tâm tánh người cầm bút hả anh Ba?
– Hầu hết những nhà văn lừng danh trên thế giới đều không có cuộc đời êm đẹp và đơn giản, thậm chí tuổi thơ của họ còn bất hạnh khôn cùng hay đầu óc của họ không được bình thường. Thành ra anh đừng mơ mộng cây viết mà anh yêu thích sẽ là kẻ “văn sao – người vậy”.
Nhện hỏi trong lúc khuấy cà-phê cho bớt nóng:
– Có nhiều người nói nhà văn nhờ người nuôi nên văn chương mới bay bổng, anh nghĩ sao?
– Vậy anh có thấy ai là con nhà giàu mà trở thành nhà văn tiêu biểu chưa?
– Hình như có mà ít lắm.
Anh Ba Hói trề môi:
– Sống sung sướng tấm thân, chưa từng trải đời hay chịu khổ ngày nào, cũng chẳng yêu ai đến độ muốn chết quách cho xong vì tình tan vỡ, hay tôn thờ một đức tin nào đó tới mức đọc Kinh Sách của Đạo ấy muốn lòa luôn đôi mắt,… thì họ lấy đâu tư liệu thực tế để sáng tác?
Xương Tuyết nêu thí dụ:
– Bản thân Victor Hugo là phạm nhân bị lưu đày biệt xứ, Haruki Murakami đã trải qua những năm tháng thăng trầm của xã hội Nhật Bản, Duyên Anh bán sống bán chết vượt vĩ tuyến 17 để tìm cửa Sinh,… Bây giờ anh hãy nhìn lại giới viết văn trẻ tuổi trong Nước mình đi, cái khổ của họ có đủ để họ sáng tác được một tác phẩm lay động lòng người và bứt khỏi những gông xiềng tư tưởng xưa cũ hay không?
La Vie nói mà như than:
– Đố mà dám bứt, đừng nói đến chính trị, bây giờ người viết sáng tác cái giống gì cũng phải dòm mặt độc giả một cái vì sợ người ta ghét thì mất cơm ăn.
Anh Ba Hói cười khan:
– Bởi vậy nên đâu viết được cái giống đách gì ra hồn. Nếu sợ mất lòng người khác thì đừng có viết văn, tôi chỉ nói tới đây thôi.
Ham đặt câu hỏi:
– Còn mấy bài văn đạt điểm cao gần đây? Mọi người thấy sao?
Anh Ba Hói cười dài:
– Không đánh đồng hết tất cả, tôi chỉ nói về những bài văn mà tôi đã thấy thôi: Phần đông là ăn cắp văn, đạo ý và mượn luận chứng giả tạo…
– Khoan, “giả tạo” là sao? – La Vie cắt ngang.
– Tức là trích dẫn luận chứng sai sự thật hoặc dựa trên sự tưởng tượng của người viết. Chưa hiểu phải hôn? Là như vầy nè: Tôi viết cuốn sách “Đau đớn” nói về gia đình tan nát từ sau khi người chồng – người cha chết trong một lần ông ta ra khơi đánh cá; anh chưa đọc sách của tôi nên không biết tôi “Đau đớn” cái gì, vậy mà dám viết rằng cuốn sách của tôi nói về một cô gái lầm đường lỡ bước nên “Đau đớn”. Nhiều đứa học sinh bây giờ không đọc hết một cuốn sách văn học, thành thử có biết khúc cuối cái kết ra sao đâu, cho nên đưa tác phẩm của người ta vô làm thí dụ cho bài viết bị trớt quớt hà.
Nguyên nhóm cười ồ lên.
– Chưa hết nữa. Viết một câu văn mà nhét năm, sáu ý vô trong trỏng. Đọc vừa mệt mắt vừa “dài – dai – dở”. Câu nào câu nấy luộm thuộm, rườm rà, vế trước đá vế sau cái véo. Hổng biết sao mà được điểm cao nữa.
Nhện góp lời:
– Đâu phải ai cũng được như nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng và nhà văn Nguyễn Đình Toàn. Một câu – Nhiều ý mà không gây rối mắt người đọc, cũng như ít bị vế trước ở đằng Đông mà vế sau ở đằng Tây.
Đợi nhân viên bày biện đồ ăn hết rồi, nguyên nhóm mới trở lại cuộc tranh luận.
Xương Tuyết kể:
– Người này trước đây là vô thần và chống “phản động”, thường xuyên lên bài chửi những Linh mục quan tâm đến vấn đề an sinh xã hội và tình hình Đất Nước. Tự nhiên sau mùa cúm Tàu, người này hốt nhiên Quy Y và trở thành Tăng sĩ; không những thay đổi nội dung bài viết theo chiều hướng “trở cờ” mà còn tỏ ra ta đây thân cận và ngưỡng mộ “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất”. Nhưng mà cái đuôi nằm vùng vẫn lồ lộ ra, vì dầu có cái mác là sư thầy nhưng người này không phân biệt được Đại Thừa và Tiểu Thừa, dẫn đến đem Kinh bên này áp qua Kinh bên kia, thêm nữa diễn giải Kinh Phật cũng trật lất luôn. Mà ngộ cái nữa, người này đi hai hàng và chuyên môn thọc gậy bánh xe: Vô nhóm Nam Kỳ thì ăn nói y chang Nam Kỳ và thóc cáy Bắc Kỳ, vào nhóm Bắc Kỳ thì ăn nói hệt khuôn Bắc Kỳ và ca tụng các nhân vật lịch sử và chính trị của Đàng Ngoài từ xưa đến giờ.
La Vie vừa cười sặc sụa vừa hỏi:
– Đó gọi là dạng gì anh?
– Một dạng “cảm tình viên – nằm vùng”. Và ai nói người này là Tăng sĩ chớ trong mắt tôi khứa này chẳng phải, vì không có người sư thầy nào lại phạm Vọng Ngữ và lên Facebook đều như ăn cơm vậy.
Ham vừa dẻ cái trứng kho tàu vừa cười rung người mà hỏi gã bạn điên:
– Nếu mà người ta thấy khứa này chắc sẽ đổ oan thầy tu Phật Giáo bôi nhọ Công Giáo?
– Ờ. – Xương Tuyết gắp cái đuôi cá chiên mà bỏ vào trong chén của anh Ba Hói. – Tôi thấy mắc cười vì hai bên bị khứa này xoay mòng mòng như quay dế.
La Vie kể:
– Hồi trước tôi cũng khen nhiều bài viết của người ta lắm. Sau này đọc nhiều và đi nhiều thì tự khắc bớt khen.
Ham bình phẩm:
– Bây giờ được mấy ai nắm rõ tiếng Nam Kỳ rặt…
Nhện nêu ý kiến:
– Đối với tôi, người nói tiếng Nam Kỳ rặt đã chết gần hết rồi. Biết thì chỉ nhau nói cho đúng, chứ đừng có học theo cái thói “phải chuẩn”, nghe điếc con ráy dữ lắm.
Xương Tuyết đưa ra thắc mắc của mình:
– Tôi không hiểu tại sao cụ Hồ Biểu Chánh lại để cho nhân vật xưng “Tôi” thay vì “Tui”?
– Cái này căng à nha… – Nhện gãi đầu khó xử.
Anh Ba Hói xua tay:
– Thôi, để kỳ sau đi mày.
Nhện nêu lên câu hỏi để kỳ sau cả nhóm tìm câu trả lời:
– Với lại cuốn “Ai làm được” nữa, cụ để cho nhân vật nhỏ tuổi xưng “Cháu” và gọi “Bác”. Kỳ sau mình bàn vụ này nghen?
Bây giờ nguyên đám thảo luận về chữ nghĩa thời nay. Ham là người trình bày đầu tiên:
– “Trọng lượng” mà viết thành “Tự trọng”. Cái xe mà cũng biết “Tự trọng” nữa. Chắc mơi mốt nó biết “Tự vẫn” quá.
Anh Ba Hói nêu ý kiến:
– Còn không thì viết “Sức nặng” cho thuần Việt như trong cuốn “Việt Nam tự điển”, quyển Hạ, trang 1687.
Nhện bổ sung:
– Đúng ra trong tiếng Anh là “Gross weigh” và “Curb weight”, không biết dịch sao mà thành “Tự trọng” hết ráo.
Xương Tuyết thêm:
– Nhưng hình như thuở trước 75 không xài chữ “Khối lượng” mà chỉ xài chữ “Trọng lượng”. Tôi đọc qua mấy cuốn “Vật Lý” xuất bản trước năm 75 mà không thấy đâu hết, mọi người có thể dò lại giùm tôi chữ “Khối lượng” trong cuốn “Toán – Vật Lý” của lớp Đệ-Lục Trung-Học, xem coi có chữ đó không.
Ham hỏi:
– Vậy theo anh, nếu áp dụng theo cách dịch thuật và xài chữ thuở trước 75 thì ba chữ này ra sao?
– “Gross weight” là “Trọng lượng giả định” và “Curb weight” là “Trọng lượng thực tải”. Vì “Curb weight” là trọng lượng riêng của chiếc xe, chưa bao gồm hành khách và hành lý, nên phải cậy đến chữ “Thực tải”; còn “Gross weight” là ước-lượng chiếc xe có thể chứa sức nặng của bao nhiêu hành khách và hành lý, sau đó mới cộng trọng lượng riêng của chiếc xe vô, cho nên phải dùng chữ “Giả định”. Tôi hoàn toàn dựa vô sách mà anh Ba giới thiệu nên chắc có lẽ sẽ không đúng với thời nay đâu.
Anh Ba Hói cãi:
– Theo tao thấy thì chữ “Curb weight” nên dịch là “Trọng lượng riêng” phứt cho rồi.
– Vì người ta còn tính luôn cả trọng lượng của bình nhiên liệu đã được đổ đầy nữa, chứ không phải chỉ là riêng chiếc xe thôi.
– Tức là họ tính luôn dung tích nhiên liệu vô trọng lượng chiếc xe? Tao vẫn giữ ý kiến của mình, “Trọng lượng riêng”, không có “Thực tải” con mẹ gì hết. Hoặc mày phải đưa ra được một chữ khác thay thế hay và rõ nghĩa hơn, có thể khi ấy tao sẽ nghe theo.
La Vie toan góp lời, nhưng một tin nhắn đã làm cho anh ta thôi trò chuyện mà hấp tấp ăn cho sạch sẽ phần cơm của mình để còn đi công chuyện.
Xương Tuyết chợt nhắc:
– Hễ ai mà nói câu “Tự hào dân Đồng Khởi – Bến Tre” là biết gốc gác sao rồi.
La Vie cảm ơn người bạn thiết đã nhắc nhở, rồi đưa điện thoại cho cả nhóm đọc tin nhắn. Rồi nhờ mọi người hãy làm giúp anh ta vài chuyện…
oOo
Ngày kế nữa ở lại Vĩnh Long, nhóm anh em Công Giáo đi thăm những Giáo dân nghèo mà họ biết địa chỉ. Họ đem theo rương hành lý để khi cần thứ gì có thể lấy thứ đó ra liền.
Sáu Quới chọn bài Thánh ca “Ave Maria” do Duy Trác trình bày, nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ bài Thánh ca “Ave Maria” theo ý văn của nhạc sĩ Gounod. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cũng soạn nhạc phẩm này vào năm 1972, nhưng theo ý văn của nhạc sĩ Franz Schubert, và để “Trang trọng tri ân Đức Mẹ FATIMA (Bình Lợi)”; nhạc sĩ Phạm Duy cũng một bản đặt theo ý văn của ông Franz, rất dễ lầm lẫn ba bài với nhau nếu không thấy được tờ nhạc của mỗi bài để đối chiếu.
“Cầu xin Maria
Thấm nhuần một lòng thương chúng ta
Đoái hoài một đàn con xót xa
Mến trìu một bàn tay thiết tha của Người…”
Sáu Quới bình phẩm:
– Có lẽ vì theo Đạo Phật nên Đại-tá Đông đã viết một câu: “Tạ ơn Thiên Chúa Gabriel truyền tin khắp nơi…” Gabriel là Tổng Lãnh Thiên Thần không phải Thiên Chúa.
Henrico Thạnh bật cười:
– Rất nhiều người tưởng ca sĩ hát sai lời, dè đâu là họ hát theo bản của Đại-tá Đông. Sau này nhiều người trình bày Thánh ca đã sửa lại thành “Thiên sứ” cho đúng với vai trò của Tổng Thần Gabriel.
Stephen Đoàn bấy giờ mới lên tiếng:
– Bài này bản ngoại quốc có nam danh ca Perry Como và Frank Sinatra trình bày rất hay.
Nhờ Thanh Liên và Khắc Xương đưa tiền mà nhóm anh em Công Giáo có được một mớ quà gởi đến Giáo dân nghèo. Mỗi người được mười ký gạo, gia vị tẩm ướp và nêm nếm – mỗi thứ một chai, hai chai dầu ăn cỡ lớn, một thùng mỳ gói, hai vỉ trứng, một ký lạp xưởng vịt mua ở chỗ bạn chàng mập và một hộp chả giò do ba người nữ tự rế.
Vì đã hơn mười một giờ nên nguyên nhóm quyết định kiếm quán nào bình dân ăn lót dạ.
– Đây là…
Chừng Y-Nhã Cường mở bóp ra, đã thấy một xấp tiền dày cộm nằm thơm phức trong trỏng.
– Thanh Liên. – Ignacio Cường dụi dụi đôi mắt đỏ hoe.
– Nhiêu đây đủ ăn nhà hàng rồi. – Louis Quế cười rộ lên.
Nhưng Cha Cọp không chịu. Vậy là nguyên đám rủ nhau đi ăn ở một quán bình dân có thực đơn giống như quán nhậu nhưng không phải quán nhậu.
Phước Thạnh kêu một cái lẩu cua đồng cỡ đại và năm hột vịt lộn. Louis Quế chọn món cá kèo nướng ống sậy và cá tai tượng chiên xù, hai loại đều cuốn bánh tráng, bún và rau sống nhưng khác nước chấm. Và JB Khải thì gọi năm phần bánh xèo Cù lao Dài và hai phần khoai lang – mắm sống ăn với cơm trắng.
– Ăn bình dân quá! Ăn vầy xứng đáng làm lãnh tụ vĩ đại nè. – Y-Nhã Cường cười nhếch miệng.
Stephen Đoàn đưa lại quyển thực đơn cho nhân viên rồi ngồi im ru luôn.
Ignacio Cường hỏi:
– Muốn mua gì cho cô Xuân không?
Stephen Đoàn cười khổ:
– Anh muốn nghe lời thật lòng hay nói dối?
– Anh muốn mua thì đặt liền cho tôi. Đừng có dông dài nghe mắc mệt.
Vậy là Stephen Đoàn mua đem về một phần bánh tráng nem Cù lao Lục sĩ.
– Đặt luôn bốn phần nữa đi. – Y-Nhã Cường khuyên. – Trong đây tới năm ngàn đồng lận.
Trong lúc chờ dọn món, nguyên đám ngồi nhai đậu phộng rang và nghe những bản nhạc trước năm 75.
Đến lúc song ca Nhật Trường – Thanh Lan ca bài “Chuyện tình buồn hơn Ngưu Lang – Chức Nữ” của nhạc sĩ Mạnh Quỳnh (nhưng có nơi lại ghi là “Mạc Phong Linh – Mai Thiết Lĩnh, tức bút hiệu của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng), sắc mặt của Ignacio Cường tối sầm lại, anh ngoắc bồi bàn lại và yêu cầu đổi bài.
Tưởng đâu “Đại Cathay đệ nhị” ở đâu tới đây kiếm cớ quậy quán nên chủ quán liền hớt hải chạy ra niềm nở hỏi:
– Cưng thích nghe bài chi cưng?
– Bài nào không có tình yêu đôi lứa đó thím. Đừng có nhạc Đỏ luôn.
Bà thím nghĩ chắc khứa này mới bị bồ đá nên ghét nghe nhạc trữ tình, tuy mắc cười nhưng bà không dám cười quá lớn, chỉ cười mủm mỉm rồi đi te te một hơi vô trong bật bài hát khác.
Bài này đã làm ông Cha Cọp hài lòng. Nhạc phẩm mang tên “Căn nhà hòa bình” của Thông Đạt, tức nhạc sĩ Văn Giảng, do song ca Bùi Thiện – Thanh Tuyền trình bày.
Bỗng đâu Henrico Thạnh lớn tiếng gọi:
– Thím ơi, tính tiền!
Bà thím hơi giận nên nói xẵng lè:
– Gì nữa vậy mấy cưng? Ráng đợi xíu đi có đồ ăn liền hà.
– Dạ hông phải. Thím cho tụi con coi hóa đơn trước cái đã, để lát nữa ăn xong cho khỏi lôi thôi đôi bên.
Cũng sợ bị quịt tiền nên bà thím liền lại quầy thu ngân in hóa đơn.
Sau khi coi xong từ đầu chí cuối, nguyên nhóm gật đầu ưng thuận giá tiền đã tính trên hóa đơn.
– Thím in thiếu rồi. Còn mấy phần bánh tráng – nem đâu? – JB Khải nhắc nhở.
– Thím quên. Lát nữa thím in riêng có sao đâu.
Ignacio Cường trả tiền trước, không quên bắt thím kiểm tiền đàng hoàng rồi hẵng ký tên lên tờ hóa đơn để không xảy ra chuyện phiền phức về sau.
Được trả tiền trước, bà thím mừng rơn mà chạy đi hối mấy đứa nhân viên và đầu bếp mau làm đồ ăn lẹ cho khách.
Sáu Quới kể:
– Nhắc mới nhớ, hồi xưa Cha Vinh-Sơn có cái biệt danh là “lãnh tụ vĩ đại”. Biết sao hôn?
Duy chỉ có Y-Nhã Cường là gật đầu.
– Vì ổng lãnh tụ nào là chết cha cái lớp đó. Đứa nào được ổng đỡ đầu cũng đều quậy banh trời nát nước hết, thành thử Thầy nào mà nghe ổng giới thiệu học trò là ông đó tự giác đệm “Oh no, oh no no no no no…”
JB Khải cười hỏi:
– Tại “số lượng lớn” quá nên được thêm hai chữ “vĩ đại” hả chú?
Louis Quế gật đầu, rồi cười biểu:
– Cái câu hồi nãy thằng Cường nói là nhái theo câu của Cha Phan-Sinh Hùng đó. Vì vốn là công tử bột nên khẩu vị của Cha Vinh-Sơn Trung rất kén cá chọn canh; bữa nào Cha Trung ăn dễ là bữa ấy lại bị Cha Hùng đem câu này ra ghẹo.
Henrico Thạnh bỡn:
– Vậy chắc Cha Trung hổng có số cầm “xâu” hay Tứ Đổ Tường.
Louis Quế cười ồ:
– Ông đó mà cầm “xâu” chắc trên đời không còn người đánh bài. Lãnh cái tụ nào là thúi quắc cái tụ ấy.
JB Khải hỏi Ignacio Cường:
– Mà sao anh biết?
– Tôi nghe Mẹ Bề Trên Maria Hòa kể…
Nhân đây, Y-Nhã Cường kể cho các anh em nghe cuộc gặp gỡ của mình và Má Hòa. Ai nghe xong thảy đều lo lắng cho số phận của những cô gái mà chàng ta đã ra giúp đỡ.
Sau bữa ăn, nguyên nhóm lên đường tới những nhà Giáo dân khác. Ban nãy sợ trời nóng hư đồ nên máy lạnh không tắt, thành thử lát nữa phải đổ thêm xăng; cũng may người trả là Thanh Liên nên tháng này vợ con chú Sáu mới có cơm mà ăn.
– Bữa nay tôi thấy cậu có da có thịt rồi đó Mỹ.
– Vậy hả chú Sáu? – Stephen Đoàn cười buồn.
Sáu Quới vỗ vai ông Cha Phó. Mấy năm qua cực khổ vì cái Giáo xứ loạn lạc triền miên đã khiến em của chú bị già đi trước tuổi rất nhiều; da thì sạm đen, thân thể trơ lại bộ cốt khô, đã vậy vầng trán còn vắt qua vắt lại những nếp nhăn hằn lên rất rõ. Bây giờ thấy nó tươi tỉnh và lên ký như vầy, chú mừng dữ lắm. Ủa mà sao cô Xuân thương nó nổi hén? Tình yêu thật lạ lùng mà cũng thật đáng quý.
Nhân viên cây xăng ngó chiếc xe nhiều chỗ sang trọng của Sáu Quới mà rụt rè hỏi đi hỏi lại là quý khách muốn đổ xăng hay dầu. Chừng nghe chú trả lời rồi, cẩu vẫn chưa yên tâm, cứ ngó hoài lên mấy cây cột mà chưa dám bơm xăng vô xe của chú.
– Chắc chắn rồi đó cậu. Đổ đi. Xe tôi, tôi nhớ mà.
– Dạ.
Tội nghiệp. Có lẽ đã từng bị ai đó bắt đền nên giờ đây cậu này mới sợ dữ vậy.
Trước lúc lên xe rời đi, Sáu Quới boa chút đỉnh tiền cho cậu nhân viên có đôi mắt thâm quầng như cương thi.
Ngôi nhà cuối cùng nằm tuốt trong một con hẻm bề ngang chỉ độ hai mét mấy. Chiếc xe Chevrolet của Sáu Quới phải gởi nhờ một siêu thị cách đây khoảng hai trăm mét, đương nhiên vẫn phải trả tiền cho chỗ giữ xe.
Càng xuống cuối hẻm, những nếp nhà cùng khổ ngày càng nhiều. Thời may Thanh Liên biểu họ mua năm mươi phần, nên giờ mới có cái phát cho người ta. Bà con Lương rối rít cảm ơn họ vì đã phát quà cứu đói; Y-Nhã Cường thẳng thừng nói số quà này là của một gia đình Phật tử, còn họ chỉ có công đi mua, gói lại rồi đem đi phát mà thôi.
– Sao hổng nói là thầy tu? – Henrico Thạnh nói nhỏ thiệt nhỏ.
– Mắc công họ vu khống Thanh Liên tu sao mà giàu quá vậy.
– À…
Thể theo sự chỉ dẫn của bà con trong hẻm, nguyên nhóm đã tìm thấy ngôi nhà của Giáo dân ấy.
Ngôi nhà nằm sát mí rạch, sau nhà cơi nới ra một khúc để có chỗ ngủ cho bà ngoại. Không có hàng rào vì nhà có gì đâu mà sợ mất. Vách nhà bằng lá và mái thì gác bằng mấy miếng tole mỏng như bánh tráng. Cửa trước dán một tờ giấy đòi nợ của tay máu mặt nào đó, có lẽ mực lấy từ máu gà hay máu heo nên tờ giấy bốc cái mùi tanh tanh, thum thủm khó ngửi.
Ignacio Cường cất tiếng gọi:
– Có ai ở nhà hôn?
Bên trong vang lên tiếng rên rất khẽ.
– Có ai ở nhà không?
Không nghe thấy tiếng trả lời, ngoại trừ lần này là tiếng rên lớn hơn ban nãy một chút.
Sực nhớ trong nhà có đứa nhỏ bị xương thủy tinh, Sáu Quới hớt hải xô cửa ập vào.
Thì ra đứa nhỏ khát nước nên đã tự ý xuống giường để đi lấy, nhưng vì đôi chân quá yếu ớt nên đã quỵ ngã dưới sàn hơn một tiếng đồng hồ. Ngay lúc nó đang thoi thóp như con cá chết ngợp thì nhóm anh em Công Giáo có mặt.
– Lấy cái mền bọc nó lại rồi hẵng đem lên giường. – Ignacio Cường chỉ dẫn.
Henrico Thạnh mau lẹ làm theo lời thằng bạn tên Cường.
Thay vì cho nó trực tiếp uống nước, JB Khải lại lấy khăn nhúng nước rồi lau lên môi nó. Kế, anh mới đút từng muỗng nước một. Chừng thấy cơ thể nó đã dần quen, anh mới đưa chung nước cho nó uống; nó uống hết ba chung nước, muốn uống thêm nữa song người chú kia lại khuyên phải đợi mươi – mười phút nữa mới được uống tiếp, nghe vậy nên nó thôi đòi.
– Con thấy đau ở đâu? – Stephen Đoàn dịu dàng hỏi.
– Chỗ nào cũng đau hết chú.
– Mấy người là ai vậy?
Người đàn bà đó xách trên tay một bịch đồ la-ghim và một bịch thịt heo nhỏ xíu, cái nón lá xấc ngược ra sau như cái mai của con rùa, bộ đồ bông nhàu nhĩ đến tội.
Đứa nhỏ vội vàng kể tường tận cho má hay để đừng gây khó dễ cho người ta.
Người đàn bà ấy thở phào nhẹ nhõm, đoạn nói:
– Rồi con thấy trong người sao? Có cần đi bịnh viện hôn?
– Thôi, ở nhà đi má, tiền đâu mà mình đi nữa…
Ignacio Cường nói lớn:
– Tôi có tiền. Đưa nó đi liền đi.
Sáu Quới cản:
– Một lần đi đóng bao nhiêu chị?
– Khoảng đâu mười ngàn, nếu nằm dưỡng bịnh trong trỏng. Còn vài ngàn nếu thăm khám sơ sịa và mua thuốc đem dìa.
Chưa kịp đi đâu, đã nghe nhà người hàng xóm đồng Đạo la ỏm tỏi như đang bị hỏa hoạn.
Ignacio Cường chạy cà-nhắc qua trước tiên.
– Cậu là ai mà vô nhà tui vậy? – Người đàn ông, chắc là gia chủ, hỏi mà như quát vô mặt.
– Có cần tôi giúp gì không?
– Giúp sao được mà giúp.
– Có sẵn xe kìa, muốn đi đâu đưa đi liền.
– Trời ơi! Tui cần Linh mục, giúp sao được mà giúp.
– Cha xứ ở đây chưa kịp xuống sao?
– Cha Sở ngày mốt mới dìa…
– Để tụi tôi làm cho.
– Đừng có làm bậy nha cậu!
Luôn cả Louis Quế, nhóm anh em Dòng Chúa Cứu Thế đều mặc áo Lễ và áo chùng thâm.
Ông lão đang hấp hối chừng như mừng quá vì cuối đời được quá trời Cha – Thầy chiếu cố nên ráng gượng chút sức tàn mà chắp tay xá họ một cái.
Ignacio Cường đứng ra làm Bí tích Xức Dầu cho ông lão. Những anh em của anh thì lãnh phần đồng tế.
Trong lúc ngồi đợi mấy người bạn của mình thay đồ, Ignacio Cường ở lại gom đồ Lễ vào cái rương của anh.
– Cha.
– Sao thím?
Người đàn bà đáng tuổi má anh khép nép đưa một cái bao thơ nằng nặng.
Ignacio Cường gạt ngang:
– Dạ, con hổng có lấy tiền đâu, thím.
– Vậy mấy Cha kia…
– Con hổng cho mà dám lấy hả?
Bà thím cười sặc sụa. Ở đâu ra ông Cha mà như “thảo khấu Lương Sơn Bạc” vậy cà?
– Cha quản xứ ở đâu Cha?
– Từng làm Cha Sở ở Giáo xứ Saint Padre Pio.
– Là Thánh nào Cha?
– Thánh Pio Năm Dấu.
– Cái tên này hiếm thấy ai đặt lắm.
– Dạ phải.
Đang nói đến đây, điện thoại của Ignacio Cường đổ chuông. Thanh Liên hỏi anh có cần tiền nữa không thì anh ta chuyển qua.
– Mười ngàn.
– Mười hai ngàn. Nhắn số trương mục cho tôi đi.
Bà thím nghe câu được câu mất thì đoán các Cha và ông Thầy chắc đang quyên góp tiền để cứu con chị Ba. Không biết ai mà giàu dữ thần. Bỏ tiền ra mà như bỏ dép lên giường ngủ.
– Hai ngàn kia là cho gia đình thím này lo hậu sự. Trong bóp của anh còn hơn ba ngàn phải không?
Y-Nhã Cường nuốt nước miếng:
– Phải.
Bà thím đứng bật dậy mà la lên hỏi dồn:
– Cho thím hả con? Cho thím hai ngàn lo hậu sự hả con?
– Dạ, hai ngàn rưỡi luôn.
Ông chú tặc lưỡi:
– Trần đời mới thấy cái cảnh Cha không lấy tiền Lễ, đã vậy còn cho ngược lại.
Bà thím nhéo vô bắp-vế ông chồng một cái đau thấu xương, làm cho ổng nhảy cà-dựng cà-dựng như khỉ mắc phong.
Chia tay với gia đình Giáo dân đang “vừa khóc – vừa cười”, nhóm anh em Công Giáo tức tốc đưa đứa bé bị xương thủy tinh đi nhà thương.
Thật may đứa nhỏ không bị thêm biến chứng nào nữa. Sau khi thăm khám tổng quát, bác sĩ khuyên nó nên ở lại nhà thương ít nhất một tuần; biết rõ gia đình nó nghèo “bền vững” nên ông không nỡ nói rõ là nửa tháng mới được.
Đóng xong viện phí và giúp nữ Giáo dân lo thủ tục giấy tờ (vì mắt thím vừa yếu, còn chữ viết thì y hệt gà bươi), nguyên nhóm trở về phòng coi con Chiên nhỏ bây chừ ra răng.
Tác dụng phụ của thuốc chưa ngấm nên con nhỏ còn chơi thổi bong bóng một mình. Hộp súp cua thập cẩm và mấy hộp cơm gà xối mỡ chưa ai đụng đũa. Ban nãy Thanh Liên gởi cho Ignacio Cường thêm bảy ngàn, nói là năm ngàn để đôi vợ chồng khốn khổ ấy có thể yên tâm nghỉ làm mà nuôi con, còn hai ngàn là để anh đưa cho Thầy Sáu đổ xăng và châm nước mát cho chiếc xe; nhưng anh chỉ giữ một ngàn, phần còn lại anh trích ra một mớ đãi cơm cho gia đình Giáo dân và những người ở chung phòng với nó. Cái phòng chỉ có tám giường mà hết thảy mười hai bịnh nhân, thành thử nhiều bịnh nhân phải trải ghế bố mà nằm; con nhỏ là cái đứa xuống nằm ghế bố.
– Cha thổi bong bóng cho con được hôn?
Dù cơ mặt hãy còn bị đau do mã tấu làm rách thịt, nhưng Ignacio Cường vẫn ráng sức làm vui lòng đứa nhỏ. Quả bóng dần lớn lên theo từng nhịp phồng má lấy hơi thổi của chàng, cơn đau cũng theo đó mà nhân lên, và đôi mắt trẻ thơ cũng vì thế mà trong veo theo.
Chơi bong bóng một hồi chán chê rồi, nó xin mượn máy tính bảng của chàng Cha Cọp để coi phim hoạt họa. Bộ phim mà nó chọn có tên là “All Dogs go to Heaven”. Nhờ xem phim vui vẻ mà nó ăn được nửa hộp súp và vài muỗng cơm gà. Có lẽ chàng sẽ nhờ Thanh Liên mua cho nó một cái máy tính bảng để nó có cái mà giải trí, nhưng anh không biết liệu mua xong tiền đâu nó mua sóng để mà lên mạng đây…
Rời khỏi nhà thương, nguyên nhóm trở về homestay.
Khắc Xương đã đi thăm thân chủ, người mà ghi danh chương trình quản lý Thuế ở tổ hợp của chàng, để thảo luận về một số thay đổi của bộ Luật năm nay nhằm giúp người này bớt được tiền thuế.
Ba người đẹp kia đã đi sắm đồ, không biết chừng nào mới về.
– Sadhu.
Thanh Liên chườm nước đá lên đôi má của người bạn khác Đạo.
– Cảm ơn anh.
Ignacio Cường đã biết toàn bộ gia sản của Thanh Liên đã chuyển sang tên của bà Ái Liên. Vậy là bạn của anh không còn vướng mắc gì với vật chất nơi thế gian nữa, như năm xưa Đấng Thế Tôn của anh ta đã lìa bỏ mọi thứ để đến với con đường Niết Bàn.
JB Khải đặt câu hỏi:
– Anh nghĩ sao về chuyện một ông sư nói theo Phật thì thành Phật, còn theo Chúa thì không thành Chúa được?
– Người đó nói đúng mà.
Nhóm anh em Công Giáo sửng sốt ngó anh.
– Đức Phật đã nói Ngài trên đời này có rất nhiều vị Phật đã thành, và chúng sanh cũng sẽ trở thành Phật nếu như chịu khó thực hành theo Ngài.
Còn Đức Chúa, theo quan điểm bên Đạo mấy anh, là độc nhứt vô nhị và đồng thời là Đấng Sáng Thế, vậy thì sao tín hữu theo Chúa mà thành Chúa được, vậy là không thành gì là đúng rồi.
JB Khải hỏi cắc cớ:
– Vậy cái câu “Duy ngã độc tôn” là ai nói?
– Theo thiển ý của tôi, câu này đâu phải cái nghĩa mà anh đang hiểu. Ý của câu này là mỗi thời, tức là rất nhiều A-Tăng-Tỳ-Kiếp, chỉ có một người có thể chứng đắc thành Phật, do quan điểm bên Đạo tôi thì Trái Đất không thể đón tiếp hai vị Phật cùng một lúc được, do đó “Duy ngã độc tôn” mang nghĩa bóng là “Chỉ có một người thành tựu mà thôi” chứ không phải là nghĩa bóng “Độc nhứt vô nhị”.
Ignacio Cường nhìn JB Khải mà bụm miệng cười. Coi ra tuy Thần Học của Khải rất khá nhưng về phần biện luận hãy còn yếu dữ lắm.
Thanh Liên vẫn giữ giọng thản nhiên mà nói:
– Nhiều người không nghe nguyên văn bài giảng, chỉ lấy khúc trái tai để đăng lên, rồi bắt đầu luận tầm bậy về Pháp.
Henrico Thạnh hỏi:
– Đâu, anh cho tụi tui một thí dụ coi.
– Thí dụ như, có người nói “Sao Đức Phật xúi giết cha, giết mẹ, giết anh, giết em, giết thân bằng quyến thuộc?”
Cha – Mẹ ở đây là sự khởi tâm sân hận của Ác Nghiệp, giết chết sự khởi tâm này tức là giết chết Ác Nghiệp trong lòng mình. Giết anh – Giết em – Giết thân bằng quyến thuộc là đoạn trừ những tác ý bên ngoài làm cho Thân – Khẩu – Ý khởi lên những ý niệm thuộc về Ác Nghiệp; thí dụ như anh không cố ý khạc đàm xuống chân tôi, chỉ là do vô tình tôi bước lên nên lãnh phải, thì tôi nghĩ lỗi là ở tôi và chỉ có vậy thôi, ấy là tôi đã giết tác ý độc hại đang manh nha khởi xướng trong tâm khảm mình.
Một bài Kinh, mà cắt hết những đoạn sau, chỉ chừa lại cái khúc Đức Phật biểu giết cha, giết mẹ, giết anh, giết em, giết thân bằng quyến thuộc, rồi nói Ngài xúi giết người, theo anh, thì anh thấy sao?
Cho nên nhiều người trích dẫn clip giảng Đạo theo kiểu thấy khúc nào ngứa mắt thì đăng lên, số chê trách đúng không được bao nhiêu, mà chê trách lầm thì…
Henrico Thạnh cười hỏi:
– Vậy anh có trách người dựng chuyện không?
Thanh Liên cười buồn, đôi mắt chàng hơi rũ xuống:
– Không, tôi đã quá quen với chuyện này rồi.
Rồi chàng Tăng sĩ lại nói:
– Nếu muốn nhận được mọi câu trả lời mà các anh muốn biết thì xin mời ghé mắt qua “Kinh Mi – Tiên vấn đáp – Milinga Panha”. Ở đó có thể đáp ứng tất cả câu hỏi của các anh.
JB Khải hỏi tiếp:
– Anh có thể trình bày về quan điểm Xá Lợi không?
Trước lúc trình bày về quan điểm của mình, Thanh Liên mời nhóm Giáo sĩ Cơ Đốc xuống hàng ba nhà sau ngồi nói chuyện cho mát, chứ đứng ngoài nắng một hồi cảm chết.
Chừng ai nấy đã ngồi xuống bộ ngựa hết rồi, Thanh Liên mới trình bày rằng:
– Có người nói Xá-Lợi của Đức Phật thành hình là nhờ việc Ngài ấy ăn chay trường và ngồi lâu. Giả thuyết này trật hơn phân nửa, vì Đức Phật ăn tạp, ai cúng gì ăn nấy, chớ hổng có trai tịnh; ngoài ra, trong khoảng thời gian hoằng Pháp Đức Phật hiếm khi ngồi thiền nguyên ngày, thường thì Ngài chia nhỏ những buổi thiền, thí dụ như có lúc ngồi nửa tiếng, lúc lại kéo dài hơn vài tiếng. Người này tự xưng là Phật tử mà còn không biết Đấng Thế Tôn lúc sống ăn uống ra sao, đi khất thực xa bao nhiêu và ngồi thiền như thế nào; bởi vậy, đối với những người ngoại Đạo nói sai về Phật Pháp, tôi chỉ cười xòa mà thôi, “Đạo bất đồng bất tương kiến” mà.
Henrico Thạnh bật cười:
– Mà sao anh rành vậy?
– Đã nói theo Đạo Phật, chứ đừng nói chi là đi tu, thì phải biết sơ lược về quãng đời của Đấng Thế Tôn lúc còn tại thế. Đọc đi, đọc lại, thì riết sẽ nhận ra lịch sinh hoạt trong một ngày của Ngài ấy ra sao.
Louis Quế hỏi:
– Sao có người nói do bị thận mà cậu?
– Nếu như Xá Lợi thành hình do sạn hoặc sỏi thận, vậy thì tại sao trên thế giới chưa có ai bị hai bịnh trên mà chết có Xá Lợi vậy?
Louis Quế nín thinh.
– Các nhà khoa học gia khám phá ra trong Xá-Lợi có những chất được tìm thấy ở thận, nhứt là sạn và sỏi thận, vậy là lập tức có một luận thuyết được đặt ra rằng do ngồi lâu nên mới có Xá-Lợi. Vậy chắc giới ngồi đánh máy suốt ngày Xá-Lợi mọc đầy người quá?
Nhóm anh em Công Giáo được phen cười đã đời.
– Muốn bác bỏ một thứ gì thì cần luận chứng chắc chắn hơn, chứ không phải là nêu ra một luận thuyết mơ hồ và đầy dẫy sơ hở như vậy. Như tấm vải liệm Turin chẳng hạn, rất nhiều khoa học gia đã tìm cách chứng minh nó là đồ giả nhưng có ai thành công đâu.
JB Khải đặt câu hỏi:
– Vậy theo anh tại sao có Xá-Lợi?
– Người nào có Xá-Lợi sau khi mất chứng tỏ người đó đã đắc thành Chánh Quả. Nhưng!
Nhóm anh em Công Giáo lóng tai nghe.
– Xá lợi có kích thước rất nhỏ và hình dạng đẹp tựa như những viên ngọc, khi đặt dưới kính hiển vi soi rõ được một cái hình giống như Chư Phật đang tọa thiền, và có nhiều màu sắc khác nhau. Còn, theo quan điểm Đạo Giáo, người nào thiêu hoài thiêu mãi mà tro cốt vẫn còn nguyên, nhứt là phần đầu và trái tim, thì bị rơi vô hai vế: Một là vì oán hận hoặc là chết oan chết ức nên không thể siêu thoát và Hai là sống thất đức quá nên chết không được mồ yên mả đẹp. Cho nên cần phân biệt rõ đâu là Xá-Lợi và đâu là “vạn kiếp bất phục”.
Một cơn gió thổi qua làm ơ cá kho bốc mùi thơm phức. Nhưng Thanh Liên không chịu được mà bụm miệng ho khan.
Biết Thanh Liên ghét ăn cá vì thuở nhỏ chứng kiến cảnh mần cá ở chợ nên Đức Cường chạy đi kiếm chai xịt phòng. Anh chọn mùi “Febreze Air Light – Bamboo” với làn hương thanh mát như ở chốn Phụng Hoàng Sơn.
– Mùi dễ chịu quá há anh?
Thanh Liên gật đầu mà nói rất khẽ:
– Ừm.
JB Khải hỏi:
– Anh nói Giới luật bên anh không cho Tăng sĩ xài tiền, vậy tại sao anh lại xài tiền?
Thanh Liên bật cười:
– Thời buổi khó khăn như vầy ai mà nuôi nổi Tăng đoàn chớ? Nên tôi mới móc tiền túi ra trả dù rằng được mời ăn.
Henrico Thạnh hỏi:
– Lớn lên với vẻ ngoài giống nữ anh có phiền không?
– Hồi nhỏ thì có… Mà, anh làm tôi nhớ tới một người bạn trong quá khứ của Thủy Diệu, cẩu tên là Justin, khuôn mặt y như nàng Bạch Tuyết.
Henrico Thạnh lại hỏi:
– Môi đỏ như máu, tóc đen như gỗ mun, da trắng như tuyết?
– Và cẩu là một người song tính luyến, luôn đa nghi và đề phòng hết thảy, kể cả Matthew – là người mà cậu ấy vô cùng yêu thương.
Nhóm anh em Công Giáo giờ mới biết quá khứ của Thủy Diệu có những người bạn rất ngộ như vậy. Nhưng Thanh Liên không đào sâu thêm mà nói về chuyện của Thủy Diệu mà thôi:
– Tôi nghĩ nhờ đi tu mà Thủy Diệu mới thoát khỏi cái chết. Trong nửa đời trước, cẩu đã gây ra quá nhiều ân oán, cũng như biết tẩy của quá nhiều tầng lớp trong xã hội rồi.
Ignacio Cường ghẹo:
– Tự nhiên tôi thấy thương anh quá. Anh nghĩ sao?
– Như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thôi. Trước lúc gia nhập Tăng đoàn, hai Ông đâu có lấy vợ và sống cùng nhau dưới một mái nhà. Sự Niết-Bàn sớm của Xá Lợi Phất có một phần liên quan tới Mục Kiền Liên, phần còn lại là Đấng Thế Tôn. Tình tri âm tri kỷ giữa hai Ông, theo lời của Đấng Thế Tôn, thì đã trải qua hằng bao nhiêu kiếp nên sâu đậm khôn lường và không có gì có thể làm rạn nứt được.
Tình cảm đó không xuất phát từ tình yêu, mà là tình bằng hữu vĩnh cửu.
– Phải, trước giờ tôi ít mến ai như anh.
– Có một chuyện vui trong Đạo tôi như vầy: Hễ người ta thấy mặt Moggàllana thì y như rằng liền sau đó sẽ thấy Sàriputta, và ngược lại; vì hai Tôn giả thường đi chung với nhau và khất thực cùng một chỗ.
Sáu Quới rụt rè hỏi:
– Cậu nghĩ sao về Tình yêu và Tình dục?
– Tình yêu có thể còn muốn chiếm hữu về mặt thể xác, tức là còn vướng mắc với Tình dục. Nhưng còn Tình tri âm – tri kỷ thì không đoái hoài gì đến Tình dục, chỉ là sự quấn quýt và đồng điệu về mặt duy ý và cảm xúc mà thôi.
Henrico Thạnh vỗ đùi cái đét:
– Vậy là anh Mỹ với cô Xuân đâu có yêu nhau. Mà sao họ cứ nghĩ họ đã yêu nhau vậy?
Stephen Đoàn vẫn làm “Linh hồn tượng đá”.
– Lay thằng chả cái coi. Coi chừng chết ngồi như Từ Hải nãy giờ rồi. – Henrico Thạnh vừa nói vừa khều JB Khải.
– Hổng thấy lồng ngực còn phập phồng, mồ hôi còn chảy mà mày nói nó chết.
Sáu Quới cự nự, rồi chưa kịp mở miệng ca đã nghe giọng oanh vàng của Cha Cọp vang lên:
– Còn ca nữa tôi cho đóng chung tuồng “Lệnh xé xác” liền.
– Dạ, con im, con im liền.
– Rồi, hết thắc mắc rồi phải không?
Nhóm anh em Công Giáo gật đầu.
Thanh Liên chắp tay mà xin phép về phòng hành Thiền.
Nguyên đám tính lên phòng ngủ trưa để có sức chiều nay đi phát quà tiếp. Nhưng vì một tin nhắn của Cha Dương nên ai nấy hết cơn mộng mị.
– Ổng gởi phim coi hay là ổng gởi thơ dằn mặt vậy Trời?
Bộ phim có tên là “The Crime of Padre Amaro – 18+”, được chuyển thể từ một cuốn sách do tác giả Mễ Tây Cơ chắp bút, nội dung có thể khó chấp nhận đối với Kitô hữu và Cơ Đốc nhân, nhưng nếu chịu xem qua sẽ thấy rất nhiều bài học mà nhà văn muốn gởi gắm thông qua những tình huống giả lập trong cốt truyện. Bắt đầu sa ngã ở điều răn thứ Sáu, người Linh mục này đã dần dà vi phạm hết chín điều răn còn lại, và đã khiến cho Chức Thánh của anh trở nên “giả hình” và đầy dẫy sự giả dối.
– Anh sẽ giống như vầy nếu còn níu kéo với cổ, chớ đừng có mơ mà “Tiếng chim hót trong bụi mận gai.” – Ignacio Cường chán nản bình phẩm.
…
Kiều Xuân đã đi đâu chẳng ai biết hết. Đã hơn hai giờ sáng mà không thấy cổ liên lạc gì với ai trong nhóm cả. Stephen Đoàn nóng ruột nên mặc kệ sự can ngăn của anh em đồng tu, anh lấy xe của Henrico Thạnh mà chạy đi tìm nàng.
Đường về khuya, sương giăng mờ lối, lác đác mưa bụi bay, gió lạnh thốc vào tận xương tủy chàng Linh mục xấu trai từng cơn rét buốt, tiếng cú đêm vọng ra từ một trong những lũy tre hai bên đường càng khiến khung cảnh trở nên âm u tợn.
Đi một đỗi rất lâu, tưởng như đã lạc sang tỉnh khác, Stephen Đoàn mới kiếm được Kiều Xuân: Nàng đang ngồi một mình trong cái quán mái tranh vắng teo, chủ quán cũng chán mà lên nhà trên ngồi coi hài cho khuây khỏa, xa xa văng vẳng tiếng con gà nào gáy sớm quá chừng.
– Xuân!
Kiều Xuân không mừng rỡ như Stephen Đoàn tưởng thầm. Nàng lặng nhìn anh bằng đôi mắt ướt rượt, rượu nào sầu hơn mắt nàng.
Thấy khách vô, chủ quán chạy chân không ra rước, rồi cười rộ lên mà hỏi, “Cưng uống chi cưng, để cô làm cho?” Dù có tâm trạng đâu mà nước với nôi, nhưng Stephen Đoàn vẫn mua giùm một ly sâm dứa sữa.
– Rồi, rồi, cô làm liền.
Stephen Đoàn ngồi xuống cái ghế phía đối diện Kiều Xuân. Anh dịu dàng hỏi:
– Xuân đang nghĩ gì đó?
– “Nghĩ một đêm trăng thanh. Quán bên đường vắng tanh. Chỉ còn Em với Anh.”
– “Con đường xưa Em đi” của nhạc sĩ Châu Kỳ và thi sĩ Hồ Đình Phương, tôi ưng nghe bài này qua giọng ca của Thanh Tuyền và Chế Linh lắm.
– “Thôi Anh hãy đi về. Vĩnh biệt kể từ đây. Đừng luyến lưu làm chi. Đừng nhớ thương làm gì. Ai thật lòng yêu ai đến bây giờ mình đã biết.”
– Xuân uống thuốc chưa?
– Anh muốn em uống thuốc lắm hả?
Stephen Đoàn gật đầu.
– Em có bịnh gì đâu mà uống.
Vừa hay chủ quán bưng ly nước lên nên hai người có thời gian mà xét lại tâm mình.
Đợi chủ quán đi rồi, Kiều Xuân mới lên tiếng thuật hết mọi sự cho mối tình cuối nghe.
– Vậy ra cả người yêu cũ cũng không biết Xuân làm nghề gì.
– Em được cử xuống để giám sát ảnh, vì sếp nghi ngờ ảnh là tay trong của bên kia, ai dè đâu tụi em thương nhau, nhưng thương cách mấy em cũng không cho ảnh biết, thành ra ảnh vẫn đinh ninh em làm nghề “gõ đầu trẻ”.
– Xuân có phát hiện điều chi bất thường ở ba tôi không?
– Không thể kết tội ổng được, vì ổng chỉ đứng ra làm cò, đồng ý đi hay không là ở mình, nên dẫu bị nhiều người đâm đơn thưa kiện ổng vẫn bình yên tới giờ. Thí dụ như em nói anh mua chai dầu gió trị cảm hay lắm, em quảng cáo đủ điều, anh tin nên anh mới bỏ tiền ra mua, mua về xài gặp chuyện thì đó là lỗi ở anh, em vô can vì đâu có chứng cớ chứng minh em ép buộc anh mua đâu.
– Tôi vẫn cho rằng ba tôi phải mắc tội lường gạt và đi tù.
– Tòa trọng chứng chớ hổng trọng cung, anh à. Không bằng không chứng mà thưa người ta thì sẽ bị lật lại là tội vu khống đó.
– Tôi vẫn chưa hiểu rõ lắm.
– Ba anh chỉ than thở vài câu và đưa địa chỉ, rồi thôi, người ta mủi lòng thương mà tự tìm đến thì biết lấy gì để kết tội ổng đây. Như em nói nhà đứa nhỏ đó khổ lắm, anh tội nghiệp tới giúp rồi bị gặp họa là lỗi ở anh, em đâu có xúi anh đâu mà anh biểu em gạt anh.
Stephen Đoàn thở dài thườn thượt.
– Cái lưỡi không xương mà anh, trăm đường lắt léo. Gặp thêm cái miệng của giới Luật gia thì hỏi sao ba anh không trắng án được.
– Bây giờ Xuân biết rồi phải không?
– Phải, nên em dìa dưới làm cô giáo vườn trẻ tiếp.
– Tôi nghĩ Xuân bị gài.
– Dạ, “Tá đao sát nhân”. May phước em chỉ bị loạn thần chớ hổng tới nổi bị phạm thuốc mà chết. Cho nên anh đừng bắt em uống thuốc nữa nha?
Stephen Đoàn gật đầu.
– Ăn bắp nướng chan mỡ hành không cô – cậu? Còn ế quá chừng mua giùm tui nghen?
Biết Stephen Đoàn không dư dả nên Kiều Xuân mở hầu bao mua hết hai tá bắp ế; nàng chia cho chủ quán tám trái, phần còn lại cho họ và mấy người ở nhà, và không quên mời bà bán bắp một ly nước giải khát.
Vừa ăn bắp vừa uống nước, đôi trai gái lặng nghe Sĩ Phú ca “Hoài cảm” của nhạc sĩ Cung Tiến. Bắp nướng thơm ngọt mà vào miệng họ như sạn lẫn trong cơm, nhai tới đâu thấy ê chề đến đó.
Bà bán bắp dạo đã quảy đôi quang gánh đi khuất dạng. Không biết bao giờ hai người mới trở lại đây mà tương phùng với thím ấy. Có lẽ ngày ấy Stephen Đoàn đã trở thành Giám mục đạo mạo, còn Kiều Xuân theo chồng sang xứ lạ làm dâu; hoặc giả cả hai sẽ đến với nhau mặc cho bao nhiêu lời dị nghị và nguyền rủa của người đời. “Yêu nhau, cho nhau nụ cười. Thương nhau, cho nhau cuộc đời. Mà đời đâu biết đời, để tình nhân kết đôi…”
Trời sắp rạng đông, đường sá nằm đó hứng chịu những đợt như voi giày – ngựa xéo của những chiếc xe vận tải nhiều bánh. Những đứa trẻ nhà ở xa trường không dám thí mạng với đoàn xe chở hàng khổng lồ nên cứ hễ thấy xe là nán lại mà vô nhà người dân đứng chờ; năm nào ở đây cũng có người thiệt mạng do xe đụng – xe cán hoặc say xỉn và bị gài đinh mà té chết, thành ra ở đây đã lập luôn một cái miễu thờ dưới gốc cây gạo, mà cây gạo đó lại vừa vặn nằm phía bên kia đường và nhìn xéo vô quán cà-phê của đôi vợ chồng luống tuổi, ngó cái miễu mà nhớ Nguyễn Ngọc Ngạn ghê.
Ba ruột của thím chủ quán đã thức dậy, đặng thay ca cho vợ chồng con gái. Dòm thấy dĩa bắp nướng trên bàn trà nhà trên, ông lựa lấy một trái vừa mắt rồi ra băng đá ngồi cạp, phải xài chữ “cạp” vì ông ăn lẹ lắm, trông y hệt như cái máy tuốt lúa vậy, đẩy qua đẩy lại còn cái cùi không. Trên nhà trước, thằng rể đang ca theo giọng Duy Khánh trong bài “Rạng đông trên Quê Hương Việt Nam” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ; Duy Khánh sống lại nghe nó ca chắc khóc lụt Cổ thành Quảng Trị.
– Vô bờ chưa mà cứ “Trên đò máy…” hoài vậy?
– Sắp rồi ba. Cần con phụ chi mà hối dữ?
– Ra kê lại mấy cây dù với sắp lại bàn ghế giùm tao.
Trước lúc ra về, hai người gọi điện báo cho những người kia một tiếng. Khắc Xương liền nhắn họ đến quán cháo lòng – bánh hỏi mà anh ta vừa coi trên mạng để ăn điểm tâm.
– Đi với Xương riết chắc thành cục mỡ luôn quá. – Kiều Xuân cười khổ.
Trên đường tới quán cháo, Stephen Đoàn gặng hỏi Kiều Xuân đủ điều về ba anh. Trước mắt anh đã biết được tính danh của cả thảy mười bảy người mà ba anh đã cùng đồng bọn cướp nội tạng. Sẵn đây, anh kể luôn cho nàng nghe nạn nhân của ba mà anh biết là Tăng sĩ Trì Thương – Trần Mộc Thảo; nàng có vẻ sửng sốt lắm vì khẩu âm của nàng nghe run rẩy và yếu ớt làm sao.
Từ cây cầu nối liền hai bờ bên bồi – bên lở, cả hai đều thấy vầng mặt trời đỏ ối đang nhô lên sau những dãy nhà thấp lè tè xập xệ. Đường sá bây giờ mới tỉnh ngủ hẳn, chỉ có một khúc đường mà xe cộ đông như vào mùa thả lưới bắt cá, nhích được một chút là lại nghe tiếng kèn xe vang lên inh ỏi và tiếng làu bàu chửi đổng của ai đó; gặp khi có xe hàng cỡ lớn quành đầu hay de thì coi như trễ làm và muộn học là cái chắc, vì bề ngang của con lộ không rộng mà từng tấc đất lại chứa đầy xe cộ các loại.
– Chắc mình biểu họ ăn trước quá anh. Đợi cái xe này chạy đi cũng phải mất nửa tiếng nữa.
– Không trễ đâu mà Xuân lo. Cường uống thuốc có chứa chất-an-thần nên ngủ say dữ lắm. Có mỗi ông mập kia là đói bụng nên thức sớm hơn mọi người mà thôi.
– Anh Cường tốt với anh quá trời quá đất.
– Tôi nợ Cường nhiều lắm, mà không biết làm thế nào để đáp đền.
– Ở trển ai lo Thánh Lễ hả anh?
– Chắc… Cha Thành, Cha Hoàn, Cha Dương… hay Cha Tường.
Kể từ ngày Stephen Đoàn và Ignacio Cường dứt áo ra đi, cho đến bữa trước mới có một Thầy liên lạc, mà cũng chẳng nói chẳng rằng gì ngoài việc gửi phim cho xem. Chi tiết người Linh mục đẹp trai dẫn cô Giáo dân đi phá thai đã khiến anh và và bạn bè bị kinh khiếp một phen. Nghĩ về người ngồi sau xe, kể từ ngày hai bên phân định rạch ròi đoạn “Tình hờ” ấy, nàng đã coi anh là anh Út thực sự, lời ăn tiếng nói đã giữ kẽ hơn trước rất nhiều; còn anh, sao anh vẫn hoang mang và dò dẫm đường về, liệu rằng anh có “đi lạc” luôn như người Linh mục sa ngã kia không nhỉ?
– Anh ơi, mình chạy huốt rồi, ra con lươn quành lại đi anh.
Stephen Đoàn hồi thần, rồi cẩn thận bật xi-nhan xin chuyển sang làn trái để lách vô khoảng hở của con lươn mà quành xe lại. Nói thì chỉ tóm gọn trong một câu, chứ trên thực tế anh phải mất gần hai chục phút mới làm xong, vì không ai chịu nhường anh hết, sau cùng anh phải thí mạng cùi “Sang ngang” đại luôn, họ mới dè chừng mà cho anh qua. Đường này mà ai yếu yếu chạy có ngày “Lên lươn” nằm sải lai.
– Sao Xuân thở nghe mệt dữ vậy?
– Anh… anh chạy mà em muốn bay trái tim ra ngoài luôn. Tưởng bị xe kia húc rồi chớ.
– Ai biểu hồi nãy thấy tới mà không chịu nhắc tôi chi?
– Có kịp đọc bảng hiệu đâu cha. Em đâu phải Dương Tiễn mà có ba con mắt.
Rồi đó, hai kẻ tình si cười ồ lên.
Quán cháo lòng – bánh hỏi khá đông khách. Xe cộ đậu hết mặt trước quán, ở đây có tới hai người giữ xe: Một già và một trẻ, chừng như là hai cha con, người trẻ hơn đầu óc không mấy tỉnh táo nên người kia hay la rầy hoài.
– Đường này đậu xe hơi được không chú?
– Bự hôn?
– Khoảng chín chỗ.
– Vậy để hai đứa tui sắp lại dàn xe gắn máy để chiếc xe kia lên lề mà đậu. Đậu dưới nó phạt thấy mẹ.
Song ca Bùi Thiện – Sơn Ca đang trình bày bản “Việt Nam ơi, ngày vui đã tới” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. Ông chủ quán vừa kiểm tiền vừa ngân nga theo giai điệu vui tươi của nhạc phẩm.
– Đi đông vậy ra bên hông ngồi ăn nghen?
– Dạ.
Liền sau đó, ông chủ sai người làm đi sắp bàn – sắp ghế.
Ngồi đợi gần hai mươi phút mà không thấy tăm hơi chiếc xe của Thầy Sáu, Stephen Đoàn sốt ruột gọi điện thoại hỏi Khắc Xương.
– Mình đi lộn quán rồi hả anh? – Kiều Xuân nhíu mày hỏi Stephen Đoàn.
Khắc Xương bật cười:
– Không sao, có gì ăn ở quán đó luôn, đừng có đi đâu nữa nha?
Ông chủ quán đã nghe loáng thoáng được cuộc đối thoại của đôi nam – nữ kia, ông không bực mình mà chỉ thấy mắc cười, hẹn hò sao mà “Đường tình đôi ngả” vậy cà.
– Có cần tui làm trước món gì không?
Vậy là Stephen Đoàn đưa điện thoại cho ông chủ nghe.
Không biết Khắc Xương dặn dò sao mà ông chủ cười tươi như hoa, ông cảm ơn lia lịa hơn năm phút rồi mới chịu trả lại máy cho chàng Linh mục xấu trai.
Chắc có lẽ trúng mánh nên ông chủ phát thêm một bài vui tươi nữa mang tên “Vỗ tay ngợi ca” do song ca Thanh Tuyền – Bùi Thiện, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ.
– Kỳ này chắc chú Sáu bị chị Sáu lột da, đi hơn nửa tuần rồi còn gì. – Stephen Đoàn vừa nói vừa coi người làm sắp chén nước mắm và dĩa rau sống.
Kiều Xuân cười nụ:
– Công nhận anh Xương dễ thương bao nhiêu thì anh Cường dễ sợ bấy nhiêu.
– Ừ, hồi ảnh mới bài sai về St. Pio, tôi cũng ớn ảnh lắm.
Đến độ bảy giờ hơn, mới thấy bóng dáng chiếc xe hơi “Chevrolet – Suburban” nhà Sáu Quới. Hai cha – con giữ xe nhảy ra làm lơ xe luôn, cũng may xe của chú có máy ghi hình và định dạng tự canh lề – tránh chướng ngại vật khi de xe nên chiếc xe vào bãi đậu rất ngay ngắn và êm xuôi.
Tuy Thanh Liên không có ăn gì nhưng cũng uống vị bụng một ly cà-phê đen đá để ủng hộ chủ quán. Đã lâu không uống cà-phê, uống lại cảm thấy ngồ ngộ và không còn ngon như ngày xưa nữa; lúc còn đi làm, ngày nào anh cũng phải uống ít nhứt bốn cữ cà-phê đậm đặc để hai con mắt mở to lên, uống riết cơ thể sanh nhiệt hành bón hoài.
– Uống hổng được hả con? Uống hổng được thì để má uống giùm cho.
Thanh Liên lắc đầu mà cười biểu:
– Con chịu được mà má.
Rồi quay qua nhìn Khắc Xương, Thanh Liên nói:
– Sáng mơi tôi về Cô Tô. Không muốn đi chung cũng được. Tôi kiếm xe đò mà đi.
– Khoan đã. Xuống Đồng Tháp cái đã. Hai tỉnh giáp ranh với nhau mà. – Ignacio Cường cản lại.
Bà Ái Liên cũng ham vui nên khuyên con trai:
– Nào giờ má chưa thấy mặt mũi Đồng Tháp đổi mới ra sao, xuống đó ở mấy bữa rồi hẵng dìa núi, con.
– Được, má thích thì con nghe theo vậy.
…
Khoảng mười hai giờ đêm, nguyên đoàn thẳng tiến về xứ sen thơm. Muốn đi an toàn và mau lẹ chỉ có nước đi vào giờ linh thôi, mà đi giờ này cũng ít thấy mặt “Anh hùng Núp” nên cũng dư được xíu tiền đổ thêm xăng cho chiếc xe.
Sáu Quới tuy thường thức khuya nhưng có tật ngủ gục nên Khắc Xương lãnh phần cầm lái cho chắc ăn. Chàng mập vừa lái xe vừa ngồi ăn bánh trái, ngồi cùng với chàng là cô Tư Lành và cô Út Hương; băng nhì là của hai má con bà Ái Liên, băng kế là của Stephen Đoàn và Ignacio Cường, băng tiếp theo là của JB Khải và băng cuối là của Louis Quế và Henrico Thạnh.
– Bây thấy chú bây tính hay không?
Henrico Thạnh bật ngón cái:
– Hay.
– Nhờ mướn xe khác lái nên giờ mới có đủ chỗ, chớ mười người mà nhét vô chín chỗ sao chịu thấu đây?
Khắc Xương thắc mắc:
– Chiếc xe của chú tính ra có tám chớ đâu ra chín chú?
– Ngồi ăn gian được chớ. Nhưng nguy hiểm thôi.
Chiếc xe mà nguyên đoàn đang đi mang hiệu “Hyundai – Solati Limousine (Skybus XLL)” mười hai ghế, do ông chủ quán cháo chỉ chỗ, người này nghe đâu là em bà con bên vợ, hèn chi ổng nhiệt tình giới thiệu quá trời.
Khắc Xương vừa nói với Thầy Sáu vừa đánh tay lái sang trái để lách cái ổ gà bự như dấu chân voi Ma-mút:
– Kiểu xe này bên trời Tây chắc khó bán, vì bên đó chuộng bố cục “quây quần” hơn là “Nghìn trùng xa cách” thế này.
– Phải, với lại ghế ngồi cũng nhỏ, không thích hợp lắm với tạng người “Avatar” bên bển.
Thanh Liên kể:
– Hồi đó sống trong khu Mỹ trắng, ai nấy đều chạy chiếc xe khổng lồ, không có chiếc nào thấp lè tè hay nhỏ gọn hết. Chỉ duy có mỗi mình tôi là chọn chiếc “chút éc” hà.
Huỳnh Quới cười hỏi:
– Cậu chắc thấp hơn tôi một khúc? Tôi khoảng đâu một mét bảy lăm hà.
– Phải, tôi cao chưa tới mét bảy.
– Ờ, cao cỡ đó kiếm mấy cái xe lùn lùn – nhỏ nhỏ, kiếm chỗ đậu xe đã lắm, không có mệt như “con voi” nhà tôi.
– Đẻ chi cho cả đống rồi than dữ? – Ignacio Cường cằn nhằn.
– Chúa cho nhiêu hưởng nhiêu mà Cha.
Henrico Thạnh giỡn:
– Mốt dìa bả cho thêm đứa nữa.
Nghe mấy đứa em vỗ tay cười quê mình, ông Thầy họ Huỳnh chỉ biết gãi đầu cười xẽn lẽn. Vợ chú nhỏ hơn chú mười mấy tuổi và cũng dữ hơn chú gấp mười mấy lần; kỳ này dìa trển hổng biết bả cho thêm đứa con hay cho nằm nhà thương cả tháng nữa đây.
– Mấy bây…
Mấy đứa em của Sáu Quới lóng lỗ tai nghe.
– Đừng có dại dột giống chú nghen? Đang yên – đang lành đừng có để dính mắc vô chữ “Yêu”, như chú bây giờ trăm đường nặng đầu gần chết.
– Có cái tấm gương xán lạn rồi đó. – Ignacio Cường đưa mắt ngó Stephen Đoàn.
Thanh Liên bỗng ngỏ lời mời:
– Chú có muốn học thêm IT không? Ở chỗ tôi có Thủy Diệu và Hỷ Tín rất giỏi mảng này.
Biết cậu Tăng sĩ “đẹp gái” không muốn mình làm buồn lòng Cha Phó và cô giáo Xuân nên Sáu Quới cũng nói lảng theo luôn:
– Ờ, để coi sao cậu, tôi chỉ biết sơ sơ nên không thể kiếm được những công việc trả công hậu hĩ được, nếu gặp thầy giỏi mà không bị mất tiền thì còn gì bằng.
– Sao nãy ông nói ổng buồn ngủ nên bắt tôi lái, giờ nói leo lẻo như con sáo ăn ớt vậy?
– Giờ ngủ nè mày!
Quế Trân nhéo tay chàng mập một cái, rồi chỉ qua bên đường mà rằng:
– Ở bển có bán thịt xỏ xâu kìa.
– Ờ, cô hổng nhắc là tôi hụt ăn rồi.
Henrico Thạnh càm ràm:
– Lỡ ông ăn trúng rồi ai lái cha? Ở đây hổng có sẵn ngựa để cỡi đâu nghen?
– Yên tâm đi mấy đứa, thằng-con cô biết lái xe. Lỡ thằng Xương với cậu Quới có bề gì thì nó nhảy lên thay thế liền.
Kiều Xuân gật đầu:
– Tôi cũng biết lái xe.
– Dạ thôi, chị ngồi yên ở đó giùm em, em còn “Yêu đời – Yêu người” lắm. – Sáu Quới xua tay lia lịa.
Trong lúc chàng cư sĩ Cao Đài lại mua đồ ăn, Quế Trân bỏ đĩa nhạc mới đặt mua trên Amazon vô cái radio. Người chỉ cô cách sử dụng máy móc trên xe là con nhỏ Út Hương.
Tiếng hát ngọt ngào của Ngọc Lan trong bài “Để quên con tim” của ca – nhạc sĩ Đức Huy; tình khúc này chính tác giả, Nhật Trường, Vũ Khanh, Trung Chỉnh, Tuấn Vũ, Thái Châu và Tuấn Ngọc trình bày cũng rất tuyệt.
Bà Ái Liên xuýt xoa khen dàn loa của cái xe đã quá, nghe vừa rõ mà không bị chát hay làm biến dạng âm thanh của người hát. Và bà cũng khuyên khuya rồi nên chỉnh loa nhỏ xuống, đặng đừng làm phiền bà con ở đây.
Sáu Quới ghẹo:
– Sao tự nhiên đang ở Việt Nam mà nghe đâu tuốt bên Cali với Paris vậy mấy chị?
Bà Ái Liên cười tủm tỉm:
– Sắp tới L.A rồi nên nghe bài này cho nó hạp.
Khắc Xương trở lại với một bọc đồ ăn thơm phức và nóng hôi hổi. Ban nãy anh đã tự lo lấy thân mà xin chị chủ quán cho ra nhà sau đi tiểu, mấy người kia nghe chị chủ quán dễ tánh nên lục tục làm theo anh. Bà Ái Liên dúi vào tay Sáu Quới hai phong bao lì-xì nằng nặng và dặn, “Chừng nào đi hết rồi thì gởi cho người ta chút tiền cảm ơn. Nước nôi để giội không phải tự nhiên mà có đâu.”
Quả nhiên, chị chủ quán cười tươi như trúng độc đắc, còn niềm nở hỏi thăm đủ điều, thay cho khuôn mặt miễn cưỡng buồn bực ban nãy.
Trên đường thiên lý, hai lần nguyên đoàn bắt gặp con cháu “Anh hùng Núp” nhảy ra mãi võ Sơn Tây xin đểu. Lần nào người xì-tiền ra cũng là bà Ái Liên; vừa mở hầu bao bà vừa lầm bầm đọc Chú Vãng Sanh như tháng Bảy cô hồn nào bà cũng làm với hương linh vất vưởng trên trần thế.
Ghé Long An, chiếc xe dừng lại ở một trạm dừng chân khá bề thế để nguyên đoàn đi vệ sinh và đổ thêm dầu cho chiếc xe. Khắc Xương mua thêm vài đặc sản quê người để đem lên xe ăn; anh mua được đậu phộng Đức Hòa, bánh tét mặn – ngọt, dưa hấu Long Trì và bánh tráng trộn.
Khắc Xương xách cặp dưa hấu mà cứ tưởng đâu xách hai bịch bông gòn. Chàng cư sĩ mập nhẹ nhàng đặt xuống chân Y-Nhã Cường mà cười mơn và nói:
– Nè, lát dìa biếu ba má anh một cặp dưa hấu.
– Cảm ơn anh nghen Xương.
– Có gì đâu mà phải cảm ơn.
Đáng ra từ Vĩnh Long qua luôn Đồng Tháp rất gần, nhưng vì không có dịp đi chơi chơi vòng vòng nên nguyên đoàn quyết định du ngoạn vài tỉnh rồi mới ghé xứ sen thơm – Cũng tức quê nội của Y-Nhã Cường.
Sau khi lên xe, Thanh Liên tiếp tục đi ngủ. Mỗi ngày anh chỉ ngủ chừng sáu tiếng, phần lớn thời gian đều dành cho Thiền, đi kinh hành, học Kinh – Kệ, rèn luyện ngoại ngữ và đọc sách – coi phim tài liệu về các chủ đề liên quan tới hai cõi Duy tâm và Duy vật. Khi mọi ham muốn bị dập hết thì lửa Dục cũng theo đó tắt ngúm; vì Stephen Đoàn vẫn còn ham tình thương mà anh đã bị người cha tước mất nên anh ta mới còn luyến lưu ngọn lửa ấm áp ấy ở Kiều Xuân.
– Mấy người sau hổng ngủ như anh Liên đi, đặng sáng mơi còn tỉnh táo đi ăn điểm tâm…
– Trời ơi, ăn quá trời mà còn ăn gì nổi nữa hả cha? – Henrico Thạnh đổ quạu.
– Lát xuống Bến Tre ăn bánh canh bột xắt hay muốn ghé Mỹ Tho ăn cháo cá lóc – rau đắng?
– Hổng có muốn ghé ở đâu hết. Đi xuống Đồng Tháp luôn đi cha ơi. – Sáu Quới cự nự.
– Xe trong tay quan là của quan, lát quan mà đói là quan tự kiếm quán quan xơi, khỏi ý kiến ý cò chi sất.
Sợ Cọp gầm lên nên ai nấy tự giác khép miệng lại trước khi Đức Cường nổi đóa. Và dù muốn dù không, những hành khách bất đắc dĩ của Khắc Xương đều ráng dỗ mình vào giấc ngủ.
Chừng khoảng nửa tiếng sau, biết chắc mọi người đều đã ngủ hết, chàng luật sư họ Tạ mới mở Kinh Cao Đài lên nghe. Chàng nghe thông qua mạng xã hội, vì bài Kinh bổn Đạo rất nhiều nên không thể chép ra đĩa mà đem theo bên người được. Tay trái chàng cầm lái, tay phải chàng lần tràng hạt; con nhỏ “Bến Te” kia mà thấy cảnh này chắc chửi chàng tắt bếp mất.
Thanh Liên đã ngủ dậy. Anh sửa lại vai áo cà-sa rồi uống vài ngụm trà xanh để khử mùi hôi trong khoang miệng. Anh mở tay nải để lấy cuốn tự điển “Anh – Việt – Pali – Phạn” ra ôn. Để tránh làm mất giấc ngủ của Ignacio Cường do bật đèn trần, anh mở điện thoại và đặt nó dưới định dạng “Đèn pin” mà soi vô trang sách muốn đọc.
Bài Kinh bên bổn Đạo của chàng cư sĩ Cao Đài vẫn chưa kết thúc, hiện nó mới tới phần Hai, hãy còn hai phần nữa mới hoàn thành buổi tụng. Do khúc đường quá nguy hiểm nên Khắc Xương không còn lần hạt nữa mà đặt luôn cả hai tay và tâm trí lên bánh lái.
– Ai mở cái gì nheo nhéo vậy? – Sáu Quới hỏi mà như đang mớ.
– Kinh bổn Đạo của tôi.
– À, vậy thì nghe tiếp đi.
– Ngủ mơ thấy vợ dí đánh hay sao mà nói sảng vậy chú?
– Không, ngủ cà chập cà chờn nên nhức đầu thôi.
Thanh Liên bèn lại gần mà đưa chú Sáu một viên thuốc cảm, nước thì thẩy có rồi nên khỏi cần cho.
– Cảm ơn cậu Thanh nghen.
– Sadhu.
Đi gần tới khu nghĩa trang, bỗng đâu Khắc Xương thắng xe cái kịch.
– Ở trỏng có ai ngoắc mình phải hôn quý vị?
Sáu Quới cự:
– Chúa ơi, tôi hổng có muốn đóng phim “The Exorcist” đâu, đừng có giỡn nhe cậu?
– Ma quỷ đách gì? Để tôi xuống coi cho. – Ignacio Cường vừa nói vừa đi xăm xăm lại cửa xe, mặc cho cái chân vẫn chưa liền vết thương.
JB Khải, Henrico Thạnh và Stephen Đoàn cũng hấp tấp nối gót theo.
Té ra người vợ sắp chuyển dạ mà trong nhà không còn một đồng cắc nào nên đôi “Uyên Ương – Hồ Điệp mộng” này mới phải ráng sức lội bộ tới nhà thương. Cũng may nhà thương cách nhà họ có hai cây số, cố lết đến sáng cũng thấy mặt được cái bịnh viện, nhưng đi được hai trăm mét cô vợ đột nhiên đau bụng quá nên anh chồng đành dìu vô nghĩa trang nghỉ chân một lát.
Louis Quế nhường luôn băng ghế của mình cho cô gái tội nghiệp ngả lưng. Ông chồng quýnh quá nên ngồi bẹp dưới sàn xe mà canh chừng vợ. Có kinh nghiệm đẻ rớt nên bà Ái Liên xuống chăm sóc cho con nhỏ giống mình năm xưa. Mặc dù có năm mặt con nhưng ông Thầy Sáu không biết mần răng để giúp, hễ bà Ái Liên sai đâu là làm đó, còn không thì ngồi trên ghế mà đưa mắt ngó.
Thanh Liên bỗng lại gần Khắc Xương mà nói:
– Để tôi lái cho, Xương.
– Dạ.
Bây giờ mọi người mới hay người thứ hai trong Tăng đoàn lái xe mà như đang đua là Thanh Liên. Với tốc độ bạt mạng, lại gặp đường vắng, nên chưa đầy nửa tiếng anh đã đưa vợ chồng sản phụ tới được bịnh viện gần nhứt.
Trước lúc tiếp tục cuộc hành trình, bà Ái Liên giúp đôi “Vợ chồng quê” ấy trả hết viện phí và cho thêm một khoản tiền “nằm ổ”, cũng như vốn liếng làm ăn. Đôi vợ chồng ấy đưa lại địa chỉ nhà và hứa sau này mà khá sẽ đáp đền ơn cứu mạng của mọi người.
Ignacio Cường vừa la làng vừa vuốt ngực nhuận khí:
– Ông thần ơi, vậy mà ông la con chạy nhanh làm ông sợ chết…
Thanh Liên bật cười:
– Lúc không cần thiết thì chạy nhanh làm chi?
Khắc Xương thầm nghĩ chắc không có lần sau anh để cho Thầy Vân hay Thầy Liên lái giùm đâu, “Lần đầu là lần cuối”.
Rốt cuộc nguyên đoàn cũng phải đi ăn sáng theo ý chàng mập cư sĩ. Họ dừng chân ở thành phố Bến Tre và ghé vào một quán bánh canh bột xắt bình dân ở góc đường Phú Khương.
Trong quán nhỏ, cái máy cát-xét cổ lỗ sĩ đang phát trích đoạn cải lương “Cái cái – Con con (Cái kiếp con người ca cổ)” của soạn giả Chí Tâm do Hùng Cường trình bày.
– Tôi nghĩ cái tuồng này là “điềm báo” cho tương lai của tôi đó. – Sáu Quới cười mà như mếu.
Henrico Thạnh cười tủm tỉm:
– Chú đoán coi mình bị lãnh phần “Con” hay phần “Cái”?
– Chắc cả hai quá bây ơi.
Vì không tham gia ăn uống nên sau khi đi vệ sinh xong Thanh Liên trở ra xe ngồi đọc Kinh Thiện Sanh và ôn chữ Pali cùng Phạn ngữ.
Ăn uống đâu tới bảy giờ hơn, nguyên đoàn đến thăm làng bánh tráng Mỹ Lồng, nhà thờ Đức Mẹ La Mã và làng bông Cái Mơn trước lúc về quê nội của chàng Linh mục họ Huỳnh. Đáng tiếc là ghé thành phố xứ dừa quá sớm nên không mua được kẹo dừa Thanh Long và kẹo chuối Yến Hương chánh hãng, mà phải mua ở các sạp ven đường với nguy cơ hàng dỏm khá cao; Henrico Thạnh cản không cho mua, khuyên rằng chừng nào trở về thì mua ở hãng lớn cho chắc ăn, song thấy gia đình cô bán hàng tội quá nên Khắc Xương mua thí giùm vài cây.
– Kệ, ăn hổng được thì đem vụt. – Khắc Xương vừa nói vừa chỉnh kiếng chiếu hậu. Bên cạnh anh, cô Tư Lành đang khui một hộp để mọi người nếm thử; nếu ngon thì mấy cây kia để Đức Cường đem biếu người thân, nhược bằng có vấn đề thì liệng sọt rác.
Ăn cũng được chứ không bằng hai hãng lớn kia. Vậy là lát nữa họ phải quành lại mà ghé mua kẹo – bánh một phen rồi mới xuống Đồng Tháp được.
Làng bông Cái Mơn và Sa-Đéc cũng tương đồng nhau, tương đồng ở cái chỗ người trồng bông năm nay than ế, than khổ, than lỗ, than thở đủ điều. Bông tươi bao nhiêu thì sắc diện người trồng héo bấy nhiêu. Nước nhiễm mặn, ít ai lui tới mua giống, phí tổn phải trả hằng tháng tăng vọt, xăng – dầu đội giá như kim cương – hột xoàn, nợ chồng nợ chất,… nếu kể hết tất cả nguyên nhân thì không biết kiếp nào mới xong.
– Sao Thầy cười vậy Thầy Sáu? – Henrico Thạnh vỗ vai chú Sáu.
– Tôi đang tưởng tượng cái cảnh chở cặp bông xuống nhà Cha Cường, hổng khác nào chở củi về rừng hết.
Trong lúc nhóm anh em Công Giáo và những người kia viếng nhà thờ Đức Mẹ La Mã, Thanh Liên ra ngoài xe mà xếp bằng tọa Thiền. Ngần ấy thời gian chung đụng với cõi Ta-Bà đã khiến anh thấm mệt và chỉ muốn về Cô Tô càng sớm càng tốt. Bởi lẽ nơi đó không có mùi nhân thế và những ẩn ức của kiếp nhân sinh, nơi đó chỉ có thiên nhiên không giả tạo và thanh âm của vạn vật tuyệt diệu. Hằng ngày anh được đắm mình trong ánh sáng của ngày mới và bóng tối của đêm cũ. Và với mỗi bước kinh hành và bình yên tĩnh tâm trên đá, anh lại nhận thấy một Ý Niệm của Pháp.
– Liên.
Là Ignacio Cường.
– Vô chơi.
– Má tôi biểu tôi vô chụp hình lưu niệm hả?
Ignacio Cường gật đầu, trên môi nở một nụ cười rất hiền.
Sự xuất hiện của Thanh Liên đã khiến bà con ở đây được một phen kinh ngạc, bởi vì cách ăn bận của chàng Tăng sĩ y hệt như bước ra từ Kinh Phật và sắc diện không khác chi Tôn giả Ananda.
Người bạn Linh mục của nhóm anh em Công Giáo bước lại mà cười hỏi:
– Thầy tu ở chùa nào vậy Thầy?
Thanh Liên chắp tay mà đáp rằng:
– Thưa Cha, tôi tu ở trên Phụng Hoàng Sơn, lấy hang ̣đá làm chốn dung thân mà thôi.
Ignacio Cường tiếp lời:
– Anh Liên không có nói móc đâu. Ảnh sống trong hang đá thiệt, chừng nào vô mùa mưa lũ mới trú ở tịnh thất do các đồ đệ quán xuyến mà thôi.
Đến khoảng một giờ kém mười phút, tức là đã xế trưa rồi, nguyên đoàn đã tới Đồng Tháp.
Sáu Quới vừa vươn vai vừa nói:
– Tới “Lo-Đi-Ra” rồi.
Quế Trân tròn mắt hỏi:
– Là sao chú Quới?
– Bên Mỹ có “Florida”. Bên đây tới nơi thì phải “Lo-Đi-Ra” chớ, chứ ngồi lì trên xe chi?
Ngôi nhà từ đường của dòng họ Huỳnh nằm lọt thỏm giữa ruộng bông ngàn vẻ. Diện tích của cuộc đất cất nhà ước độ hai ngàn mét vuông, hàng rào ôm vòng lấy căn nhà được làm từ lưới mắt cáo và cây trà, mỗi bên cổng nhà mọc một bụi tre cao ngất và rất già. Cũng may con đường dẫn vô nhà có bề ngang khá rộng và được trải nhựa đàng hoàng nên chiếc xe bốn bánh cỡ lớn chạy vào khá dễ dàng và an toàn.
Ignacio Cường vừa lấy hành lý vừa nói với mọi người:
– Để tôi xuống bấm chuông…
– “Chuông đổ chùa xa, chiều tan trường về Điệp cùng Lan chung bước…”
– Tôi hổng có cắt dây chuông mà tôi cắt cái mỏ của chú đó nghe chú Sáu.
Ai nấy thảy đều cười rần.
Nhưng Y-Nhã Cường chưa kịp bước xuống thì anh Hai Đức Dũng của anh đã chạy đến mà vỗ vào thân xe và reo lên:
– Úy, sao dìa mà hổng nói cho gia đình hay tiếng nào vậy mày?
Y-Nhã Cường giả lả bằng cách giới thiệu anh Hai cho mọi người biết.
Để chàng Giáo sĩ nghèo không bẽ mặt với gia đình và bên nội, Thanh Liên mời nguyên nhà anh ta đi ăn nhà hàng trong một khu du lịch sinh thái gần đây.
Vừa khệ nệ bưng giỏ quà, cặp rượu và cặp dưa hấu, Đức Dũng vừa nhắc nhở em trai lên trên nhà đốt cho Ông Bà mấy cây nhang. Do biết em theo Đạo Chúa nên chú không bắt em phải thắp nhang cho bàn thờ Thiên, bàn thờ Phật và bàn thờ Thần Tài.
Tuy vậy Đức Cường vẫn thắp cho mỗi bàn thờ ba cây nhang trầm. Lòng anh thế nào thì Chúa biết, không cần phải phân bua um sùm với thế gian.
Người phụ trách trả tiền mướn xe hai mươi chín chỗ cho gia đình của Ignacio Cường là Henrico Thạnh. Thời buổi trồng bông lỗ chỏng gọng nên bớt được khoản nào đỡ khoản đó; thành ra bà con bên nhà Đức Cường cười tủm tỉm suốt.
Trong suốt buổi ăn, ba má Ignacio Cường không chịu ăn uống chi mà lại dành thời gian để hỏi han thằng con phụng sự tha nhân đủ điều; mặc cho ngày thường họ ăn uống thiếu thốn và ít dám ra ngoài tiệm ăn.
Thanh Liên được một phen ăn uống trong Chánh Pháp. Anh thoải mái ngồi sát góc tường mà Thọ Thực với món bơ dầm sầu riêng ăn cùng vài món ngọt khác như trân châu, rau câu, bánh pudding, củ năng,… Dù không thích ăn mặn, nhưng đi chung với mọi người anh phải buộc mình hòa theo họ để họ không cảm thấy khó xử với mình.
Bà Ái Liên thấy con trai vui, bà cũng vui lây. Bà thừa biết nó không muốn chung đụng với thế gian này nữa, nhưng nghĩ mình tuổi đã cao, tháng ngày ở cạnh nó thật hiếm hoi, nên bà mới tận dụng mọi cơ hội có thể để được sum vầy với nó. Thành ra chỉ có mỗi mình bà hoan hỷ, và nó thì không.
Mấy đứa nhỏ ngó thùng kem mà không dám hỏi mua. Thấy vậy, bà Ái Liên dắt tụi nó ra mua; nhớ lúc bà mang bầu thèm ngọt chảy nước miếng mà không có tiền mua, chỉ dám mấp mấp xíu đường xin được bên nhà hàng xóm, nên bây giờ hễ ai muốn là bà cho ăn liền.
Stephen Đoàn cũng làm một cây. Anh chọn hiệu “Celano” vị trà đào yêu thích. Xuân không ăn kem, nàng ngồi lặng thinh mà nhìn ra hồ súng, bông súng không được ưa chuộng như bông sen dù nó cũng đẹp chẳng kém gì “người bà con”, sắc hoa tím ngát nổi bật trên tấm lá tròn vo chạy viền răng cưa.
Ở trên sân khấu, nhóm đờn ca tài tử đã lui xuống, đặng nhường chỗ cho các thực khách trổ tài văn nghệ. Chương trình tra tấn lỗ tai thiên hạ sắp sửa khai mạc.
– Có ai hát hay hôn lên “chiếm sóng” liền đi để cứu chúng sanh kìa? – Đức Dũng cười khổ, rồi lấy muỗng dùa mớ cơm chiên còn lại trong dĩa hột xoài.
Kiều Xuân nhận lời lên hát.
Xướng ngôn viên hỏi nàng muốn hát bài chi, nàng trả lời anh ta rằng, “Tôi xin được phép trình bày Liên khúc “Yêu” của nhạc sĩ Văn Phụng, Trần Thiện Thanh và Alan Nguyễn.”
– Vậy là cô hát ba bài cùng tựa?
– Dạ.
Hai bài đầu dàn nhạc đều biết nên họ đồng ý đánh đàn cho Kiều Xuân.
“Yêu là lòng bâng khuâng
Nhớ hay thương một chiều Thu vương
Gió êm đưa xào xạc tre thưa
Lá rơi rơi, rơi lả lơi…”
Tới bài chót, “nhạc trưởng” nhờ cô gợi ý rõ ràng hơn để dàn nhạc biết bài này mà chơi.
– Bài này chỉ có vài người hát thôi, một trong số đó là ca sĩ Ngọc Lan.
Dàn nhạc bó tay chịu chết. Tình khúc hải ngoại này lần đầu tiên họ được nghe thấy tên, chứ đừng nói chi là danh tính của người nhạc sĩ kia.
Stephen Đoàn bước lên sân khấu giải vây cho Kiều Xuân.
– Xuân muốn ca bài chi thì để tôi đệm đàn cho.
– “Đến bên em”, nhạc sĩ Kỳ Phát đặt lời Việt từ ca khúc “Stand by Me” của nhóm tác giả Ben E. King – Jerry Leiber – Mike Stoller.
– Vẫn là Ngọc Lan hát bản Việt phải không?
– Phải.
– Vậy thì tôi biết bản này.
Tài nghệ thổi khẩu cầm của Stephen Đoàn đã làm mọi người thích thú, ai nấy đều mời anh nán lại mà chơi thêm vài bản nữa rồi hẵng xuống. Anh bèn chọn vài bản mà mình ưng ý rồi nâng khẩu cầm lên mà biểu diễn. Tiếng đàn của anh cứ thế ngân vang trong bầu không khí lặng phắt và nồng nặc mùi rượu bia – đồ nhắm. Không biết tự bao giờ, đôi mắt anh nhắm nghiền lại, và trong sự bủa vây của bóng tối anh ” trông thấy” khung cảnh Cung Thánh rực sáng bởi muôn vạn ngọn đèn cầy đựng trong ly thủy tinh, chỉ mình anh trơ trọi trên Cung Thánh, dưới khán phòng không có ai cả, không có một ai cả…
Hàng loạt tiếng vỗ tay reo lên như trời gầm đã làm chàng Linh mục xấu trai bừng tỉnh. Anh gượng cười cảm ơn mọi người, rồi mau chóng trở lại chỗ ngồi.
Tuy sống ở miền Tây sông nước, đã quá quen với con đò – cái lờ – cần câu, nhưng hôm nay đây những người nông dân làng bông Sa-Đéc vẫn hòa mình vào các hoạt động thường nhựt của mình dưới cái mác mỹ miều là trò chơi xứ Nam Kỳ.
Không thích chốn huyên náo, ồn ào, Thanh Liên lên cái miếu nhỏ do gia chủ lập ra mà ngồi lặng thinh quán sát sự chuyển biến của bầu trời nắng chói. Tướng ngồi xếp bằng gần như bất động của anh đã khiến nhiều du khách nước ngoài bước lại bắt chuyện. Sự thông thạo tiếng Anh, Pháp ngữ và một chút Tây Ban Nha cùng Hoa – Quảng Đông của anh đã làm họ kinh ngạc tột độ, thấy vậy, anh chỉ cười nụ mà không phân trần chi sất.
Một người đàn ông bỗng xuống cạnh Thanh Liên và dựa hẳn lưng vào lan-can hàng ba. Anh ta than thở rằng mẹ anh mê thầy chùa riết trong nhà không còn một đồng cắc nào; thành ra anh muốn hỏi rằng liệu những lời giảng đạo mà mấy thằng cha đầu trọc đó nói đúng hay là sai.
Thanh Liên không nhìn anh ta mà trầm giọng trả lời:
– Đối với người xuất gia, Đức Phật giảng khác. Đối với người nửa trong nửa ngoài, tức thuộc hàng cư sĩ, Đức Phật giảng khác. Và đối với người tại gia, Đức Phật giảng khác.
Thành ra không phải lúc nào Ngài cũng nói những điều cao siêu vượt quá tầm với của trí óc chúng sanh. Có đôi khi là cách trị quốc, lắm lúc là đạo làm con, cũng có lần đề cập tới nghĩa thầy – trò.
– Anh có bằng chứng không?
– Đọc hết Kinh Pháp Cú đi, nếu muốn biết Ngài răn dạy Tăng sĩ ra sao. Đọc hết Kinh Đại Bát Niết Bàn đi, nếu muốn biết Ngài khuyên lơn cư sĩ ra sao. Và hãy đọc hết Trường Kinh Tương Ưng Bộ và Tam Tạng Kinh đi, nếu muốn biết tư tưởng của Ngài ra sao và có điều chi mà hàng Phật tử có thể nương theo mà trở mình thành người tốt hơn.
Tôi có rất nhiều bằng chứng chứng-minh đó là lời Phật truyền đạt, muốn tôi đưa ra thêm nữa, tôi sẵn lòng giới thiệu hết luôn.
– Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.
– Với hàng Phật tử, nên tìm hiểu Kinh Thiện Sanh trong phần Trường Kinh A-Hàm. Đây là kinh điển mà phía Bắc Tông Đại Thừa hay đem ra thuyết giảng…
Người đàn ông đó sốt ruột đợi người thanh niên đẹp mã vô đề.
– Đáng tiếc thay, nếu giữ cái tâm sạch mà diễn giải bài Kinh này thì sẽ giúp thế gian trở nên tốt đẹp hơn, nhưng nhiều thầy tu Tân Tiến đã biến bài Kinh đẹp đẽ này trở thành công cụ để moi tiền tín đồ.
– À…
– Bên Nam Tông tin vào Tương Ưng Bộ, còn Bắc Tông lại là A-Hàm. Nam Tông là Bảo Thủ và Bắc Tông là Tân Tiến. Sự chia rẽ của Tăng đoàn đã xảy ra sau thời điểm Đức Phật Niết-Bàn không được bao lâu.
– Vậy ai là người chép lại kinh điển?
– Người chép lại kinh điển là Tôn giả Ananda; thành ra mới có câu “Evam me sutam – Như thị ngã văn – Như vầy tôi nghe…” trước lúc mở đầu một đoạn Kinh. Người đời sau truyền bá kinh điển rộng rãi là vua A Dục – Asoka. Bất cứ ai theo Đạo Phật cũng phải đọc qua và phải thấy chi tiết này, nhiều người trong Đạo mà tôi cứ ngỡ ngoại Đạo.
– Cũng như nhiều người không nhớ Thánh Matthias là người thay thế vị trí của Judas Iscariot.
Thanh Liên gật đầu.
– Kinh điển bên phía Bắc Tông thường truyền giảng theo kiểu “nhập thế”, tức là đề cập tới những vấn đề trong ̣đời sống – tâm lý – xã hội – chánh trị – quốc phòng, thành thử lắm lúc đi lệch khỏi Giới luật mà Đấng Thế Tôn đã biên soạn và tạo đất lành cho Ma Tăng phát triển.
– Vậy còn sự khác nhau giữa Nam Tông và Bắc Tông nào nữa không?
– Nam Tông chỉ tin mỗi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, còn Bắc Tông tin thêm Đức Phật A Di Đà và rất nhiều vị Phật cùng Bồ-Tát khác. Điều này cũng tương đồng với cách nhìn nhận Đức Mẹ Maria giữa Tin Lành và Công Giáo; bên tôn kính, bên tôn thờ, bên cho rằng đồng trinh “toàn phần”, bên lại phủ quyết điều này.
Chừng khoảng nhá nhem tối, nguyên đoàn mới về nhà của Ignacio Cường.
Ba má của Y-Nhã Cường sắp cho bên nữ ngủ trong phòng ở cạnh kho gạo, còn bên nam chia làm hai phòng: Một phòng ở gần chái bếp và một phòng sau lưng hành lang – từ cửa sổ của phòng có thể trông ra ruộng bông cúc vạn thọ, cúc đại đóa, cúc baby, cúc tím,…
Vì thời buổi “Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều” nên cầu tiêu – nhà tắm phải xây luôn trong nhà. Dù vậy, cái cầu tiêu cá vẫn còn nguyên hiện, để lỡ hôm nào xui rủi đau bụng nguyên nhà thì còn có cái mà xoay tua.
Để tránh chủ – khách mất vui, mỗi người đi tắm đều đem theo bịch nylon màu đen cỡ lớn để đựng đồ dơ và đồ dùng cá nhân, làm vậy một bên khỏi ngại và một bên khỏi bực.
Thanh Liên, Ignacio Cường và Khắc Xương ở chung một phòng. Biết Thanh Liên thích sự tĩnh lặng nên căn phòng hướng mặt ra ruộng bông được dành cho anh. Ở đây có sẵn hàng ba, anh có thể ngồi thiền nếu muốn.
Do đã ăn uống no bụng ở nhà hàng trước khi về nên ở nhà không có nấu cơm. Với một người ăn nhiều như chàng cư sĩ Cao Đài thì đây là một tin buồn, nên chàng ta quyết định lái xe ra ngoài thành phố mua ít món ăn liền ở cửa tiệm thức ăn nhanh chuyển nhượng từ thương hiệu ngoại quốc.
Nhân lúc Ignacio Cường đi tắm, Thanh Liên gọi điện hỏi thăm các huynh đệ đồng tu của mình.
Người bắt máy là Trì Thương. Hình như bên ấy đang nổi gió chuyển mưa vì Thanh Liên nghe thấy tiếng ù ù quen thuộc.
– Mệt chưa ông Thầy?
– Mệt rồi. Không Tịnh Khẩu được bao nhiêu.
– Còn phải ở chơi nhà Y-Nhã Cường nữa hả? Thì vô ăn bữa cơm rồi về Cô Tô luôn.
– Tôi muốn về ngay bây giờ.
Trì Thương cười mà rằng:
– Tôi hiểu cảm giác của Thầy. Ngày mai Bảo Sơn sẽ qua Đồng Tháp rước Thầy về, còn má Thầy muốn vui thì ở lại với họ.
…
Rạng sáng hôm sau, phái nữ trong nhà họ Huỳnh đã thức dậy hết ráo để làm tiệc ăn mừng cậu Ba Cường về chơi. Sau hè thường ngày chỉ có tiếng gà gáy và gió lao xao, nay rộn rịp như ngày Lễ Kỳ Yên, chòm xóm cũng qua phụ một tay và hùn đồ ăn – nước giải khát.
Vẻ đẹp của ruộng bông vốn đã quá quen thuộc với hai cô gái từng in vô vàn dấu chân nơi Cái-Mơn, nhưng cũng cùng nét diễm lệ đó mà sao khi ướm lên xứ người tự nhiên hai cô cảm thấy thi vị lạ kỳ và mến thương quá đỗi. Vốn là con gái miệt vườn quen hơi đất – bén mùi phù sa, nên hai cô mặc đồ bà ba và đi chân trần luôn, để được hưởng cảm giác “Em đi trên cỏ non” của nhạc sĩ Bắc Sơn mà họ từng nghe giọng ca ngọt như mít Tố Nữ của Hương Lan và giọng ca da diết đượm buồn của Hoàng Oanh. Sẵn đang rảnh tay, họ cùng những nàng con-gái trồng bông, nhổ cỏ hay khiêng những bịch phân bón ra ủ đất.
– Ấy đẹp quá chừng hà… Mình tưởng ấy là tiểu thơ không chớ.
Kiều Xuân cười rộ lên, nắng làm ửng hồng đôi gò má nàng. Nàng cười ngỏn ngoẻn hỏi:
– Đằng đó tên gì?
– Mình tên là Ái Nhân.
– Hình như đằng đó hổng phải người ở đây?
– Phải. Vậy tui đố hai bồ quê tui ở đâu?
Quế Trân khoát khoát tay:
– Thôi đừng làm khó nhau nữa bà ơi. Cho xíu gợi ý đi mà.
Ái Nhân bèn mở bài “Đà Nẵng – Bóng chiều rơi” do Anh Dũng ca, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Quang Huế.
Quế Trân và Kiều Xuân đoán hoài không ra cô bạn mới quen ở khúc nào quanh đèo Hải Vân, nên đành cười trừ chịu thua.
Ái Nhân nháy mắt mà dẹo qua dẹo lại giới thiệu bằng giọng pha trò:
– Tui ở “Đè Nẽng”.
Hai cô gái xứ dừa phá lên cười. Quế Trân lẹ miệng giới thiệu luôn:
– Còn tụi tui ở “Bến Te”.
Kế, Quế Trân và Kiều Xuân tự giới thiệu đôi nét về bản thân.
Vừa làm vừa tám được đâu nửa tiếng nữa, má chồng của Ái Vân rủ con dâu và hai nàng Kiến Hòa ra chợ chơi. Ai cũng xuất thân từ ruộng vườn – nương rẫy nên việc lội bộ bằng chân trần là chuyện dễ như ăn cháo; trên vai mỗi người là một đôi quang gánh để đầy rau cải tươi chong.
Stephen Đoàn không thể xuống bếp phụ một tay nên đành ra ruộng bông giúp trai làng đào và xới đất, cũng như rải phân bón và gom mấy chậu bông héo lên xe ba-gác. Đang cắm cúi làm, anh chợt thấy đôi dép của Kiều Xuân và Quế Trân nằm ngay ngắn dưới gốc dừa lửa và cạnh bên phông-tên bơm nước sạch. Cũng may anh ra trễ nên anh không bị rộn lòng…
Về phần Ignacio Cường, do là con của chủ nhà kiêm nhân vật chính của ngày hôm nay nên anh được mấy ông lão cao niên trong vùng xúm lại hỏi han đủ điều. Ai hỏi sao mình mẩy anh đầy thương tích dữ vậy, anh cũng đều đáp cho có rằng mình bị xe-hàng quẹt trúng xém chết. Nhân đó mấy ông già bắt đầu thi nhau kể những chuyện liên quan tới xe cộ: Từ chuyện bị gạt mua xe dỏm cho tới nhỏ cháu xin tiền mua xe đạp điện đi học mà chưa mua nổi; mỗi một chuyện là mỗi một mảnh ghép vào bức tranh đời sống xã hội xám xịt hiện nay, anh nghe xong chỉ biết thở dải thườn thượt.
Henrico Thạnh và JB Khải lãnh phần leo dừa. Trưa nay Phước-Thạnh sẽ đãi quý bà con – cô bác – anh chị em món tôm càng luộc nước dừa, vịt nấu chao môn và gỏi xoài sống trộn khô cá sặc và tôm khô.
Riêng ông Sáu Tửng, chú đang tìm cách phát lịnh truy nã khứa mạo danh Cha Thành. Chú lấy danh nghĩa kiếm bạn thân từng đi lính chung với ba để nhờ bà con trong xóm nếu thấy thì chỉ giùm. Một vài người nói bữa hổm có gặp một ông già hao hao giống như hình này, nhưng không dám chắc vì họ nghĩ ông già nào cũng có nét tướng na ná nhau, mắc công chỉ lộn thì phiền phức lắm. Chú bèn nói lảng rằng không cần kiếm ra, chỉ cần xác nhận người này còn sống là được, dẫu sao xa cách bao năm chắc gì tình bạn còn nguyên vẹn mà có thể tương phùng. Vậy là những ai từng thấy ông già có dung mạo hao hao trong hình mới dám kể cho chú nghe địa điểm mà mình gặp người này; chú mở sổ tay ghi chép lại hết.
Thanh Liên không ôm y bát đi khất thực. Anh đi kinh hành ở một xóm vườn gần đó. Bữa nay anh ăn trái cây vì món nào cũng phạm Tam Tịnh Nhục, ngay đến dĩa rau xào cũng lấy mỡ của con heo bị cắt tiết hồi sáng. Đi tới đâu anh cũng thấy những nếp nhà vắng teo, thậm chí im ắng tới nỗi không có lấy một tiếng chó sủa hay gà tranh nhau miếng ăn, chim chóc cũng ủ rũ trên những tàng cây đọt lá thâm u. Bù lại, những nếp nhà này còn giữ nguyên kiểu kiến trúc và phong phạm xứ Nam Kỳ trước năm 45 nên coi rất thú; tuy không có lấy một căn sơn lại nhưng chúng lại đẹp gấp vạn lần những công trình mới vừa tu bổ hiện nay. Trước sân mỗi nhà đều có bàn Thiên, với cách dựng cột và họa tiết y-xì như cái thời mà tao nhân của văn đàn Đàng Trong hãy còn tại thế. Đồng Tháp so ra nghèo hơn An Giang, nhưng An Giang lại không bằng Cà Mau và Bạc Liêu, và hai xứ bên dòng Gành Hào lại không bằng Vũng Tàu. Từ chuyện này mà anh thầm nghĩ sang chuyện khác. Anh thầm nghĩ tại sao đoàn phim Việt Nam lại không chọn nơi đây làm bối cảnh dựng phim trước năm 75, mà lại dựng cảnh giả đầy dẫy sai sót và lai-căng văn hóa trong phim trường, chẳng lẽ sợ phơi bày cái nghèo dai dẳng của vùng đất này sao?
– Ơi, Cô… hay Thầy gì đó đi tác-ráng hôn, tui cho có giang một đoạn.
Thanh Liên gật đầu, đoạn chắp tay mà nói lời cảm ơn “Ông lái đò”. Lúc ấy trên chiếc tác-ráng vẫn còn vang tiếng hát Sơn Ca trong bài “Con sáo sang sông” của nhạc sĩ Phạm Minh Cảnh.
Ông bác đưa anh đi thăm những nhà máy xát lúa và kho trữ gạo. Cũng như rất nhiều vùng đất ở Nam Kỳ, nơi đây gạo ngon ê hề, nhưng giá bán ra không xứng với công sức mà người nông dân đã bỏ ra, phần nữa là thị trường eo hẹp do vẫn còn tình trạng lạm dụng thuốc công nghiệp trong thời gian trồng lúa.
– Nhà này bán gạo sạch nè cậu. Con tui nó làm tá điền nhà đó nên tui biết chắc lắm.
Theo hướng ngón trỏ của ông bác, Thanh Liên nhìn thấy một silo bề thế với vô số nhân công đang vác gạo từ sà-lan vào kho hàng. “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”, bán buôn gạt gẫm chỉ được cái lời liền, nhưng bán buôn uy tín thì lời muôn kiếp.
Đến khoảng mười giờ bốn mươi lăm phút, đoàn khách phương xa đã tề tựu ở ngôi nhà hương hỏa của dòng họ Huỳnh. Biết rằng Thanh Liên là người tu hành không muốn phạm Thanh-Quy nên ai nấy để anh được tùy ý chọn chỗ ngồi, vậy là anh bưng dĩa trái cây ra ngồi ở cái sạp tre kê dưới gốc cây mận da-người. Sau nhà là một con đường khá rộng, ngồi đây có thể trông thấy dòng sông quê êm đềm trôi và lũy tre xanh rì đu đưa theo cơn gió mát lành. Dĩa trái cây của anh gồm có dưa hấu, thanh long, mít và xoài; xoài này là xoài nở sớm, không ngon bằng xoài chín đúng mùa, nhưng cũng đủ thỏa mãn cơn ghiền của những ai thích ăn loại trái này.
Trong nhà và nơi sân trước ăn uống – hát hò vui vẻ tưng bừng, sau hè một mảnh an nhiên – tự tại. Trong một bài Pháp, Đức Phật đã ngợi khen một người say mà tỉnh vì người này biết đòi làm ông Phật, còn người tỉnh mà lại say vì lòng luyến ái và tham đắm những thứ Vô Minh đăng đăng đê đê ở thế gian. Vài con sẻ nâu sà xuống cái vạt mà chàng Tăng sĩ đương ngồi; chàng mở tay nải lấy nắm gạo, mà ông chủ vựa gạo phát tâm cúng dường cho mình ban nãy, để đãi đám chim trời một bữa trưa ngon lành. Một người và bầy chim cứ thế Thọ Thực trong Niệm Lành của Pháp.
Ăn xong hết mấy miếng thanh long thì chiếc xe “Lexus” tám chỗ của Trần Bảo Sơn cũng vừa trờ tới. Như con cá nước mặn đánh hơi thấy mùi biển, Thanh Liên đeo tay nải lên vai rồi đi một hơi ra ngoài cổng luôn.
– Liên! Liên!
– Chi Cường?
– Ở chơi…
Thanh Liên vỗ vai người bạn ngoại Đạo mà cười hiền:
– Hẹn anh ba bữa nữa lên núi chơi.
Biết không cầm được chân Thanh Liên nên chàng Linh mục có hai má lúm đồng tiền đành buồn xo gật đầu, rồi gượng cười mà rằng:
– Rất sẵn lòng.
…
Đúng hẹn, Phá Vân đã có mặt ở trước cửa nhà Đức Cường để chở nguyên đoàn lên Phụng Hoàng Sơn. Anh nhờ Bảo Sơn chở qua đây giùm bằng xe gắn máy, chứ không lấy xe nhà cư sĩ mà lái đi.
Vì bữa trước đã coi phim mà chàng Tăng sĩ “Nanda – Hoàng tử” góp mặt nên những ai chưa từng được chàng ta chở háo hức lắm. Trong phim chàng ta đánh võ, lộn nhào, đua xe và thực hiện những màn diễn xuất nguy hiểm trông đã mắt lắm, không biết lát nữa có chịu biểu diễn cho họ xem không.
Stephen Đoàn đưa mắt nhìn ông Cha Sở. Ignacio Cường cũng ngó lại ông Cha Phó. Rồi không ai bảo ai mà cả hai đều làm dấu Thánh một lượt. “Xin Chúa giữ gìn con.”
Quế Trân chắp tay thưa Phá Vân, rồi nhỏ nhẹ xin phép lên xe ngồi trước. Cô ngồi băng đầu với Henrico Thạnh – thằng bạn tri kỷ từ hồi còn dám cởi truồng tắm mưa; nó ngồi ở giữa cô và sư thầy.
Băng chót là dành cho chàng cư sĩ Tạ Khắc Xương. Với tướng tá của mình, anh tự giác biết phải ngồi hai ghế mới vừa mông. Mà băng chót lại có ba chỗ, rất rộng rãi và duỗi chân cũng thoải mái. Tiếc là con nhỏ kia hổng chịu xuống ngồi cùng để hai đứa tha hồ ăn hàng và gây lộn với nhau. Ngồi ở trển với hai ông kia làm chi không biết.
– Muốn tui ngồi cùng không mập? Đô-rê-mon, hỏi sao nín khe vậy? Mừng quá hay gì?
– Có đâu bà. – Khắc Xương trả lời với đôi gò má đỏ lựng.
– Đứng lên mậy.
– Trời ơi, cái con này, nhiều chuyện thiệt!
Henrico Thạnh ngó theo bóng lưng của con mắm bạn thân mà bật cười. Anh và nó đâu còn là hai đứa nhỏ đầu hôi mùi nắng, tay chân dơ dáy vì làm biếng tắm gội mà lại ưa lội sình – đằm mình dưới sông, đã vậy còn hay bị chọt bụng vì ăn bậy ăn bạ nữa. Rồi sẽ tới lúc, nó mời anh làm phù rể cho nó. Gần, gần lắm rồi…
– Nam tả – Nữ hữu, tui ngồi bên phải. Tui nhỏ con nên anh đừng có sợ chật.
Kiều Xuân bèn ngồi hàng ghế trên con nhỏ Tư Lành. Ghế này có thể xoay được nên hai đứa tha hồ tám chuyện với nhau. Thấy vậy, bà Ái Liên qua ghế bên cạnh ngồi.
Louis Quế lên băng đầu ngồi với Henrico Thạnh. Băng nhì là của Ignacio Cường và Stephen Đoàn. Và băng tiếp theo là của JB Khải.
– Còn trống một ghế hả Cường? Cho anh Hai đi ké một khúc với.
– Dạ, anh Hai lên đi.
Anh Hai của Y-Nhã Cường là nông dân rặt. Quanh năm lụi hụi nơi ruộng bông và những vồng rau đủ loại xanh ngắt, nên màu da đen như lọ nồi, còn đầu tóc thì quắn quéo vì bị cháy nắng. Cũng may anh được thằng em tu sĩ cảnh báo nên mới không bị mất tiền ngu do mua trái phiếu.
– Xe này mua nhiêu mấy đứa?
– Đi mướn nên tụi em không biết giá. – Khắc Xương trả lời.
Dù bữa trước đã được em trai giải thích về những vết thẹo trên thân thể nhưng Đức Dũng vẫn gặng hỏi thêm. Anh đã từng trải qua thời chiến loạn với đám bạn tứ chiếng nên biết rành đâu là thẹo do bị chém, đâu là thẹo do bị tai nạn xe cộ.
– Có phải em là nhơn vật chánh trong đoạn clip kia không?
Y-Nhã Cường không muốn nói láo nữa nên đành phải gật đầu.
Đức Dũng siết chặt nắm tay phải. Song, anh không đả động thêm nữa, chỉ giả lả hỏi han những chuyện vô thưởng vô phạt ở tận đẩu tận đâu mà thôi.
Qua những ruộng lúa chìm trong nước màu, tới hàng cây da sà nằm ven một con lộ cái mới làm khang trang, Đức Dũng mới ra hiệu dừng xe; quán cà-phê ấy nằm giữa bốn bề ruộng – nước, trông như một cái cồn hay lưng một con rùa khổng lồ vậy – tùy thuộc vào trí tưởng tượng của mỗi người mà sẽ có một sự liên tưởng khác nhau.
– Ổng tính làm Bạch Cư Dị hay gì mà lựa cái quán này vậy? – Louis Quế cười hỏi.
– Có muốn nghe bài gì thì nghe đi. – Ignacio Cường nói thật lòng.
Louis Quế liền mở bài “Đường chân trời” của người con “Đất thiêng” Anh Việt Thu với phần trình bày của song ca Hoàng Oanh – Phương Đại.
Vốn là dân đồng bằng quanh năm suốt tháng nên nhóm đồng hương xứ dừa và Sáu Quới thích thú dữ lắm khi được thấy cảnh núi non hùng vĩ và rừng xanh ngút mắt. Nhưng niềm vui mau chóng tàn lụi, vì đường đi xốc chưa từng có, không chỉ bụi bặm mà còn loang lổ “Những đóm mắt hỏa châu”; chưa hết nữa, bề ngang con lộ nhỏ xíu, một chiếc xe hơi chạy qua là bít hết lane rồi, thành thử vừa lái vừa phải banh mắt quan sát xe hai bánh và người đi đường có băng ẩu không.
– Trời ơi, đường đã hẹp mà còn dẫn bò đi dạo! – Sáu Quới than.
– Mấy đứa nhỏ đáng tuổi con chú mà phải đi chăn bò kìa chú. – Henrico Thạnh thở dài thườn thượt.
Những đứa trẻ ấy, Việt có, Miên có, con lai có, dù tuổi vừa mới chớm dậy thì mà đã biết cách lùa bò về chuồng cho gia đình. Coi đồng hồ và giở lịch xem thì thấy giờ này đáng ra tụi nó phải đi học chứ không phải là đi bang bang ngoài đường chăn bò như thế này.
– Tụi nó còn nhỏ mà giỏi dữ quá… – Sáu Quới nói trớ để thoát khỏi cảm giác bất lực.
– Giỏi mà không đi học thì lớn lên vẫn như vầy thôi. – Khắc Xương cau mày bình phẩm.
– Học mà học vẹt thì lớn lên vẫn như vầy thôi. – JB Khải bổ sung. – Tôi là thí dụ “sống” nè, có cãi lại cái miệng của Kỳ Thanh đâu.
– Ủa mà… – Sáu Quới ngập ngừng một lát rồi im bặt luôn.
– Sao chú? – Đức Cường nhíu mày hỏi.
Sáu Quới khó nhọc trình bày:
– Cẩu bên ngành Triết mà sao nói chuyện không có một miếng chữ nghĩa “học thuật” vậy?
Phá Vân trả lời thay:
– Có câu “Dốt hay nói chữ”. Thầy Liên thích nói một cách đơn giản và nêu thí dụ gần gũi chứ không thích màu mè sáo ngữ.
Quế Trân cười rộ lên:
– “Dốt hay nói chữ”. Đúng vậy. Bữa hổm có bà xướng ngôn viên nói một câu mà nhét mười mấy chữ Hán – Việt tối nghĩa vô phần giới thiệu. Nghe vừa nhức đầu vừa tức cười gần chết.
Khắc Xương hỏi:
– Là sao cô?
– Thí dụ, là thí dụ của tui nghen chớ đó không phải là phát ngôn của bả: Bữa nay cung nghinh chư vị xuống đây diện tiền trong một niềm hân hoan xác tín…
Nguyên đoàn cười lên cái rần.
– Thành thử chẳng ai tin Thầy Liên đã tốt nghiệp ngành Triết, vì Thầy toàn nói theo kiểu bạn bè ngồi nói chuyện phiếm với nhau không hà. Thẩy nói, “Người ta hỏi sao thì trả lời bình thường thôi. Mắc gì phải đưa Platon, Socrates,… vô phần trình bày.”
Henrico Thạnh phì cười:
– Một trong những triệu chứng của bịnh ngộ chữ là phải thể hiện bản thân đã đọc sách của những nhà triết gia tầm cỡ thế giới, thành ra viết về đề tài chiên một cái trứng cũng phải nhét một câu kết luận của cha nội nổi tiếng nào đó mới thở được.
Trước lúc Phá Vân quẹo phải, Sáu Quới mở bài “Mời Em về quê Anh” do song ca Bùi Thiện – Thanh Tuyền trình bày; đây là nhạc phẩm của Phạm Vũ Anh Tứ, tức một trong những bút hiệu của nhạc sĩ Đài Phương Trang.
Tận lúc xế trưa, nguyên đoàn mới tới được Phụng Hoàng Sơn. Trước lúc lên núi, Phá Vân chở họ tới một quán ăn gia đình trong vùng Tri Tôn; sau một lúc lựa chọn, nguyên đoàn chọn cơm tấm Long Xuyên, tung lò mò và gỏi bồn-bồn ngâm chua.
Một người thầy tu cao như trái núi đứng xịt vòi nước vô bầy chó hoang. Vừa làm vừa lẩm nhẩm ôn lại bài Kinh mà sư huynh bắt học thuộc.
– Hoàng Kỳ!
Nghe tiếng Ignacio Cường, Hoàng Kỳ mừng rỡ chắp tay mà cúi đầu.
Sáu Quới hơi thất vọng vì tịnh thất “không có cái gì hết”. Kiến trúc đơn điệu, chừng như ráp lại cho có cái chỗ ở mà thôi, sàn nhà khỏa xi-măng lên để giúp trang phục bớt dơ mà đỡ mất công giặt lâu.
Nhóm khách phương xa bước vô thăm Chánh Điện.
– Sao giống bên Tin Lành quá vậy? – Sáu Quới ngạc nhiên kêu lên.
JB Khải bật cười:
– Giống đâu mà giống, chú.
– Hông, cậu hiểu lầm rồi. Ý của tôi là hai bên đều không trưng bày ảnh – tượng ở nơi thờ phượng.
– À… Đúng ha!
Henrico Thạnh chỉ tay vào những hàng cột được chạm khắc rất tinh xảo và công phu mà hỏi người Tăng sĩ cao bằng anh rằng đây là gì.
– Bánh xe Chuyển Pháp Luân. Ở Tây Tạng và Bhutan có nhiều công trình gắn liền với loại kiến trúc này lắm.
– Để làm chi vậy anh?
– Để dành cho những người mù chữ, vì theo quan điểm Mật Tông thì một lần dịch chuyển bánh xe bằng vô vàn lần tụng Kinh – niệm Phật, thành ra những ai có lòng mà không có trí có thể tự đọc như người biết chữ.
Nói đoạn, Trì Thương lấy tay đẩy nhẹ lên thân cột. Tức thì cột ấy xoay vòng vòng, rồi mau chóng kéo theo những cây cột khác cùng lăn tròn.
Cô Tư Lành chắp tay xin phép làm thử.
Bà Ái Liên dẫn hai người đẹp xứ dừa qua gian bên trái để thu xếp chỗ ngủ. Ở đây có nhà tắm – cầu tiêu riêng nên không sợ chung đụng với bên cánh nam giới. Nghe thằng Thanh kể bữa trước cô gì đó tên Lan quýnh quá nên vô đại nhà tắm – cầu tiêu bên chỗ tụi nó, làm bà được phen cười bể bụng, con nhỏ này mà về làm dâu nhà người ta chắc mệt lỗ tai lắm đây vì cái tánh ẩu tả – bộp chộp vô duyên của mình.
– Trải chiếu ngủ hả cô? – Quế Trân mừng rơn mà hỏi. Cô khoái nhứt là nằm đất nhưng ở nhà tía má cản hổng cho vì quan niệm con gái nằm vậy bị mất duyên.
– Ừ, chịu khó nghen?
– Đâu, con khoái ngủ vậy nè, hổng có bị nực cái lưng.
Kiều Xuân đã trải xong ba tấm chiếu. Nàng chọn nằm giữa cô Hai và nhỏ Tư. Dù ngăn cách một bức vách mà nàng vẫn nghe thấy tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau và sự huyên náo vì gió lay cây cành. Bên cạnh nàng, cô Hai và nhỏ Tư đang làm phồng mấy cái gối và giũ mền trước khi đặt lên chiếu. Tuy rằng đêm ở trên núi thường mát hơn dưới đồng bằng, nhưng hễ mà trở nực thì nực hơn gấp mấy lần, thành ra phải sắm sẵn cây quạt: Một ở trên trần và hai ở trên sàn.
Trước lúc cùng hai nhỏ gái ngủ trưa, bà Ái Liên khóa cửa phòng và kéo màn cửa cẩn thận. Không quên lấy hai cái va-li chặn ngay cửa, để hễ có động tĩnh gì thì ứng biến kịp thời.
Biết Hoàng Kỳ rất giỏi quyền Anh nên Khắc Xương muốn chàng Tăng sĩ Châu Phi chỉ giáo vài chiêu tự vệ. Đợi cho các Thầy và các Huynh đồng ý, Hoàng Kỳ mới dẫn chàng cư sĩ Cao Đài vô rừng luyện võ.
Phá Lâm và Phú Vân thì đảm nhận phần dẫn đường cho nhóm Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đi ngoạn cảnh Cô Tô. Địa điểm mà hai người bạn đồng Đạo chọn lựa là Vồ Hội lớn và nhỏ, nơi đây cảnh sắc vừa đẹp vừa có thể đón mây thấp, ngoài ra đường lên đó không mấy dễ dàng nên khách nhàn du không quá đông.
Vốn con nhà nông nên Henrico Thạnh bước đi soi sỏi không biết mệt. Trái lại ba người bạn của anh bắt đầu thở hổn hển và sắp sửa ngã gục.
Phá Vân mời “Ba chàng lính ngự lâm” lại gốc cây gừa đại thụ ngồi nghỉ chân. Sẵn để họ thưởng thức món bánh bao tiêu nướng do thím Huê tự tay làm; trưa nay cô Huê cúng dường cho Tăng đoàn cháo Tiều, bánh tiêu nướng và nước bình-bát dầm đá – đường rưới một xíu sữa đặc.
– Ngon quá! – Henrico Thạnh vỗ đùi cái đét. – Nhưng ăn cái vị hơi là lạ, hổng giống mấy chỗ mà tui hay ăn.
Phú Lâm bật cười:
– Cô Huê chế biến theo phương cách gia truyền mà.
Ignacio Cường hỏi:
– Thanh Liên là người Minh Hương?
Hai người bạn đồng Đạo gật đầu.
Ignacio Cường hỏi tiếp:
– Thiện Sanh là người Triều Châu?
Phá Vân trả lời:
– Vì ông tổ của A Luật và thím Huê không qua đây theo diện Minh Hương nên tụi tôi phân ra như vậy cho dễ nhớ.
Phú Lâm bổ sung:
– Vì cùng gốc gác Minh Hương nên Đại Trưởng Lão Đới Lan coi mẹ con Thầy Thanh như bà con ruột thịt. Hồi Trưởng Lão còn sống, Thẩy và thím Liên hay nói chuyện bằng tiếng Quảng với nhau lắm.
Ignacio Cường xen vô:
– Hèn chi mà Thanh Liên biết nói tiếng Quảng.
Đến khoảng ba giờ chiều, nguyên đoàn mới đến được cái vồ thứ nhứt. Lúc này khách đã thưa dần vì nhiều người sợ bị lạc đường hoặc nhân lúc đường còn vắng mà tìm đến những khu vui chơi náo nhiệt khác dưới chân mây. Vài đôi nhân tình đang thừa dịp mới yêu mà chụp lại những bức hình kỷ niệm.
– Tự nhiên tôi nhớ đến bài “Trên đỉnh mùa Đông” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh: “Em ơi, yêu đi, yêu đi, trên đỉnh yêu đương gió tỏa thêm hương…” – Stephen Đoàn vừa nói vừa lau cây khẩu cầm ánh vàng.
Henrico Thạnh bật cười mà rằng:
– Cưới nhau được ba bữa là “Đời hoa chóng tàn vì thiếu mặn mà” liền.
Về phần ông Thầy Sáu, sau hơn hai tiếng học hành căng thẳng, chú chắp tay xin phép cáo từ trước khi cái đầu chú nổ tung. Thủy Diệu bèn dẫn chú ra Vồ Hội lớn và nhỏ để ngồi ngắm cảnh hoàng hôn đặng thư giãn thần kinh.
Dù là ở tuốt lưng chừng núi nhưng vẫn có xe gắn máy qua lại. Hầu hết là những tay lái “cứng cựa” hay những người hành nghề xe ôm chở khách du lịch, số nhỏ còn lại là bà con sống và làm việc trên Phụng Hoàng Sơn nên dù chạy yếu cỡ nào cũng phải ráng sức tự lái.
Dọc đường đi, Sáu Quới hỏi han người Tăng sĩ đẹp trai đủ điều về đời sống Anh Cát Lợi và những quốc gia khác. Nhờ sự trải đời của cậu em con lai hai dòng máu mà ông chú thanh bần biết thêm những nét đặc sắc về văn hóa của các nước. Chú tính chừng thằng thứ Năm được sáu tuổi sẽ dắt gia đình du lịch Đài Loan hoặc Thái Lan, đi đây đi đó cho biết với người ta, nên bây giờ chú tằn tiện dữ lắm.
– Chắc đứa này là đứa chót luôn quá… Có thêm đứa nữa hổng biết gia đình lấy tiền đâu mà sống…
Henrico Thạnh vỗ vai ông Sáu Tửng:
– Năm đứa rồi còn ham chi nữa hả chú?
– Tại vuột ra chớ đâu có lường trước.
Thủy Diệu che miệng cười khúc khích. Nhưng rồi sau đó, anh thầm lo âu; không biết những cuộc tình ngang đường của anh có khiến cho ai đó mang thai và con anh phải sống lại nửa đời bấp bênh như cha nó không nữa. “Bồ-Tát sợ Nhân, chúng sanh sợ Quả”; câu này anh đã được nghe Đại Trưởng Lão Như Phong giảng giải từ hồi Quy-Y mà giờ đây mới thấm thía được. Âu cũng nhờ sự Hữu Duyên với Thầy Phó Tế Louis – Huỳnh Quới.
JB Khải nói:
– Tụi tôi đêm nay tính ngủ ngoài trời, làm như đi cắm trại vậy đó mà, ở gần tịnh thất của mấy cậu đi tiêu – đi tiểu yên tâm hơn.
Thủy Diệu gật đầu, đoạn biểu:
– Nhưng mà để tụi tôi chỉ chỗ cho cắm trại, không biết mà cắm gần địa bàn của mấy con chó là hôi chết luôn.
Louis Quế bật cười:
– Ờ, chưa chết vì cảm lạnh mà chết vì xạ chó rồi.
Thủy Diệu lại che miệng cười khúc khích.
Nhờ có mấy cái bánh bao – tiêu nướng của thím Huê mà đôi chân ngũ tuần của Sáu Quới chịu đựng được chặng đường dài đằng đẵng trước mắt. Hồi trẻ, chú luôn là người về nhứt trong những cuộc thi điền kinh, giờ đây dốc hết sức mới lội bộ được.
Nhác thấy bốn thằng em, ông Sáu mừng còn hơn đến Jerusalem. Chú lê thân tàn mà lại ngồi cạnh xấp nhỏ và thở như chưa từng được thở.
– Ông thở gì thấy ghê vậy ông nội? – Henrico Thạnh vừa hỏi thăm Louis Quế vừa vuốt vuốt lưng nhuận khí cho ông già tội nghiệp.
– Tôi già rồi mà cậu.
Thủy Diệu đưa bình nước cho Louis Quế uống; không quên dặn ông Sáu Tửng chỉ nên nhấp môi từng ngụm chứ đừng uống cái ực liền, kẻo cơ thể không phản ứng kịp thì nguy.
– Rồi sao chú không gọi điện hỏi coi vợ chú thử coi? Làm cánh chim phiêu bạt mấy bữa rày chắc chị Sáu “vui” dữ lắm. – Henrico Thạnh cười hỏi.
Thay vì trả lời câu hỏi của thằng em xứ dừa, Sáu Quới lại để cho nó nghe bài “Nàng lạnh như mùa Đông” do Thái Thảo ca, không rõ ai đặt lời Việt từ ca khúc “Lady of Ice” của đôi tác giả Anthony Monn – Walter Schmid. Sau đó mới cất tiếng tâm sự:
– Ẻm mang nặng đẻ đau hết năm đứa vì tôi, giờ tôi đi chơi bỏ ẻm ở trển chịu cảnh mẹ chồng – nàng dâu…
Ignacio Cường khuyên:
– Thôi, ở đây thêm hai bữa nữa rồi hẵng về. Chú cũng chưa có học được thêm xíu xiu kiến thức nào mà.
Ra tới Vồ Hội Lớn thì hoàng hôn đã bắt đầu phủ sắc không gian. Bữa nay mây dày và xếp lớp như vảy rồng, trát thêm một lớp ráng vàng nữa nên trông càng giống thân mình của con rồng tợn. Những người khách phương xa có cảm tượng mình đang đứng tựa vào thân rồng mà phóng tầm mắt nhìn về phía Thái Dương thần điện. Hòa trong tiếng gió ngàn là tiếng chim rừng gọi bầy và hương thơm thanh thuần của rừng già đầy kỳ hoa dị thảo.
Nghe theo lời khuyên của nhóm Tăng sĩ, đoàn khách phương xa lo xuống núi liền để kịp giờ ăn uống và dạo chợ đêm. Đương nhiên, để không bị trở thành tiêu điểm của đám đông, người nào người nấy đều tắm gội và thay đồ mới.
Phá Vân đưa họ xuống núi, rồi đi xe ôm về trển. Anh bỏ rượu bia đã lâu nên giờ mà đến những nơi nhậu nhẹt sẽ bị mắc ói và lâu lư. Thành ra không thể ngồi đợi được.
Nơi mà đoàn khách ghé ăn tối là một nhà hàng buffet trong thành phố Long Xuyên, có sức chứa hơn năm trăm bàn, nhờ giá cả phải chăng và món ăn phong phú, cũng như chịu khó thay đổi thực đơn thường xuyên, nên bán cũng đắt lắm. Đương nhiên, người đài thọ bữa cơm này là má con bà Ái Liên, chứ mấy người kia hùn lại được bao nhiêu đâu.
Vì phong trào “Hát với nhau” nở rộ nên ở đây cũng bày một sân khấu trang hoàng khá long trọng và cầu kỳ. Lâu lâu cũng có người lên ca vài bản cho tiêu thực, đặng đói bụng ăn tiếp cho đỡ lỗ tiền vé.
Vài thực khách thấy Ignacio Cường giống với người Linh mục bị chém đang nổi đình nổi đám trên mạng nên nán lại dòm cho kỹ hơn nhằm xác minh thực – hư. Ông Cha Cọp chơi tình quờ luôn, anh không quởn để chiều lòng những kẻ nhiều chuyện và lắm lời.
Biết Cha Phó đã lại quầy xào mà chờ dĩa mỳ của cẩu, Louis Quế lại gần Kiều Xuân mà bắt chuyện. Nàng ta hiện đang đứng ở quầy thịt mà cắt sườn nướng giùm một đứa bé trai ăn bận kiểu cách con nhà giàu. Đúng là đi đâu nàng ta cũng không thể bỏ cái nghề nhà giáo được.
Đợi cho đứa bé trai ấy trở về chỗ ngồi, Sáu Quới mới nhìn Kiều Xuân mà cười:
– Cô cũng can đảm lắm đó cô Xuân. Tôi tưởng đâu…
– Sao tôi lại không dám hả chú? Dám thương thì dám nhận, vậy thôi?
– Vậy dám bỏ hôn?
– Không. Nhưng, tôi sẽ không quấy rầy anh Mỹ nữa. Coi như hai đứa là tri kỷ tình thâm mà thôi.
– Cô không sợ Giáo dân chỗ tôi ghi thù cô vì đã dụ dỗ ông Cha Phó sao?
– Người ta chửi hay ghét đều không khiến mình chết đâu chú, không có tiền mới chết đó. Với lại, chú nè, sống mà hai lỗ tai quạt qua quạt lại như con voi cũng dễ yểu số lắm đó chú.
Lời nói móc của con nhỏ xứ dừa không làm cho ông Sáu tức giận, trái lại ông còn bật cười thành tiếng vì tưởng tượng cái mặt mâm của mình mà có thêm hai lỗ tai voi sẽ tếu tới độ nào.
Thái độ của ông Sáu đã làm cơn bực mình của nàng Xuân mất tăm mất tích. Người gì đâu mà không biết giận, chẳng biết hờn, chỉ biết cười xuôi xị qua lề. Nàng bĩu môi một cái, rồi mau chóng lại quầy đồ biển mà gắp cho mình một dĩa hải sản đầy vun.
Trước lúc trở về Cô Tô, Sáu Quới ghé sạp lạp xưởng, khô và đặc sản “Đất thiêng” mua làm quà cho vợ con; chú gởi luôn nội trong đêm nay và dặn nhà xe phải đưa tận tay vợ mình, vì nhà chú “chuột” nhiều lắm, chia năm – xẻ bảy một hồi chắc vợ – con chú hổng còn cái bịch nylon. Nhà xe bèn đáp, “Dzậy chừng nào xe tới, tui gọi điện báo cho vợ chú một tiếng, rồi, cho số điện thoại của chỉ giùm đi chú.”
Chứng kiến cảnh ấy, Henrico Thạnh được phen cười đã đời. Anh vừa dụi nước mắt vừa cười diễu:
– Cái nhà của chú làm tui nhớ tới truyện “Trọng Thủy – Mị Châu” quá: Giặc ở sau lưng nhà ngươi đó!
– Hông, ở trước mặt bây ơi!
Phá Vân đã tới nơi nên Khắc Xương được lui xuống băng chót ngồi nghỉ tay. Xe đã được châm thêm dầu và nước mát trong lúc ngồi chờ chàng Tăng sĩ một thời là diễn viên hào hoa – phong nhã đi xe ôm tới.
– Anh từng lái ra đèo Hải Vân chưa? – Sáu Quới vừa hỏi vừa nhắn tin với “Bé yêu”.
– Một trong những ngọn đèo tử thần ở Việt Nam. Hồi xưa, tôi xém bị lật xe ở đây, cũng may tay lái không đến nỗi tệ nên toàn mạng chạy tiếp.
– Mà, đường lên Cô Tô hẹp té mà anh lái xe coi bộ khỏe ru.
Phá Vân quay qua nhìn ông Sáu mà cười biểu:
– Biết thế là chạy được hà chú.
Louis Quế rùng mình lè lưỡi:
– Cho vàng tôi cũng hổng dám chạy xe gắn máy lên trên trển, chớ đừng nói chi là lái xe bốn bánh.
– Phải. Có gan thì hãy chạy. Còn sợ bóng sợ gió thì đừng nên cố làm gì, chỉ tổ xảy ra chuyện đáng tiếc.
Sáu Quới bật ngón cái, tỏ vẻ đồng ý hết mực với lời nhận xét của người Tăng sĩ họ Phan.
Dù đã định là chạy về Phụng Hoàng Sơn, nhưng dọc đường thấy cảnh nào đẹp hay chỗ bán đồ ăn – thức uống nào đông thì Phá Vân vẫn ngừng xe cho đoàn khách xuống chơi và mua sắm một lát. Giữa xô bồ trần thế, anh quán sát mọi thứ bằng đôi mắt Vô Thường; và nhận thấy một cõi Nhị Nguyên hiện tiền trước mặt.
– Cảm ơn anh nhiều lắm. – Stephen Đoàn vỗ vai Phá Vân trước khi về chỗ của mình.
Phá Vân chắp tay mà rằng:
– Sadhu.
Tăng đoàn do bộ ba Chân Tâm – Thanh Liên – Đoạn Trần quán xuyến đã vào hẻm núi hành Thiền. Trước lúc cáo biệt đoàn khách phương xa để vào rừng hành Thiền, Phá Vân dặn Khắc Xương nhớ châm thêm nước mát cho xe và kiểm tra nhớt máy: Nếu thiếu, châm thêm. Nếu dơ, để đó anh về thay cho.
Bà Ái Liên kéo hai nhỏ gái về phòng nghỉ ngơi; ai cũng muốn tắm rửa một chập nữa rồi mới đi ngủ nổi.
Trong lúc đợi Cận-Sự nữ Ly Ái rửa mình rửa mẩy xong, hai con nhỏ xứ dừa tán gẫu về các loại mỹ phẩm và tin tức trong giới giải trí.
– Ê, bồ. – Kiều Xuân vừa mở nắp hộp kem dưỡng da vừa hỏi Quế Trân. – Độ rày tâm trạng bà sao?
– Có, song ca Duy Quang – Ngọc Lan trình bày nhạc phẩm “Mình còn yêu nhau (Còn yêu Em không?)”, nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ tình khúc “Do You love Me?” của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Sharif Dean. Tui thích bài này quá nên ráng kiếm cho bằng được bài gốc.
– Bồ có yêu ai đi chăng nữa thì bài này cũng đâu có hạp với bồ.
Quế Trân vỗ vai nhỏ bạn cùng quê mà nho nhỏ khuyên lơn:
– Bỏ ổng đi bồ ơi. Ổng trên răng dưới dép, giờ có hoàn tục bà với ổng cũng hổng mặn nồng được bao lâu đâu. Bà hổng thấy cái mặt bà hao hao má ổng hả? Ổng đâu có thấy bà, ổng thấy má ổng không hà. Mà bà cũng đâu có thấy ổng, bà thấy đấng cứu thế không hà.
Nói đoạn, Quế Trân kể cho cô bạn nghe:
– Hồi trước, tui thường nghe bài “Touch” của ban “Miss A”, bây giờ thì không… Nay ngẫm chuyện của bà mà tui nhớ ra bài này, tui nghĩ bà với ổng nên ca bài này là hạp nhứt.
– Sao bà hổng nghe nữa?
– Sau khi ban nhạc này tan rã, hai ca sĩ gốc Hoa trở về nước và đã công khai ủng hộ đường lưỡi bò. Tự nhiên thấy cấn cấn nên nghe không được nữa.
– À… Vậy còn bài nào mà giống hoàn cảnh của tôi nữa không bồ?
– Có. “You and I” và “Don’t cry” của Park Bom, cô này là thành viên ban “2NE1”. Cô này cùng tên với bà đó, “Bom” trong tiếng Hàn có nghĩa là “Mùa Xuân”.
Kiều Xuân không vội nghe, nàng tì cằm lên đầu gối mình mà hỏi:
– Bồ thấy K-Pop bây giờ ra sao?
Quế Trân cười mỉm:
– Tui thấy người đẹp nhiều hơn ca sĩ. Một số nữ ca sĩ ca dở tới mức mà tui cũng không hiểu bởi căn cớ nào họ được công nhận là ca sĩ nữa. Hổng lẽ là vì có nhan sắc và nhảy giỏi sao?
Nhưng mà hễ ai nói đụng đến mấy người đó là bị quy chụp “Ganh tị”, “Tại mày hổng được như người ta nên kiếm chuyện chê”, “Xấu hơn người ta mà bày đặt ý kiến – ý cò”, “Mày có nói gì đi chăng nữa thì người ta vẫn đẹp và giàu”,…
Kiều Xuân gật đầu:
– Thêm nữa là có nhiều bài vô nghĩa, thí dụ như “Em thật lòng… Í a í ồ…” hay “Tôi rất là… Ố ô ố ồ…” Sao không viết trọn vẹn nguyên câu mà lại đi sáng tác theo kiểu nhét “đệm âm” cho khớp với bản nhạc vậy?
Quế Trân vừa đứng dậy để đi soạn đồ vừa nói:
– Tui đâu có thích coi người đẹp ăn bận thời thượng biểu diễn; tui chỉ muốn nghe ca sĩ trình bày nhạc phẩm mà thôi, dẫu có là ăn mày – mình mẩy ghẻ lở cũng được nữa.
Kiều Xuân không ngờ con nhỏ cái miệng tía lia suốt ngày cũng có những nỗi niềm không biết tỏ cùng ai.
– Tui có quen một bà chị hát đám cưới, bả ca còn ăn đứt nhiều ca sĩ nổi tiếng bên này và bên Hàn, nhưng vì không chịu cặp bồ – cặp bịch với ai nên tên tuổi chìm nghỉm luôn. Mỗi bận gặp bả, tui thường mời bả đi ăn đi uống để đổi lấy vài bài ca của bả. Nếu như bà được gặp bả, bà sẽ hiểu thế nào là ca sĩ thực thụ.
– Bà đó hát nhạc gì hay?
– Nhạc Lính. Bả ca mà tui cứ tưởng chồng bả chết trận thiệt không, vì bả trình bày bằng tất cả cảm xúc nên từ tiếng ngân cho đến ánh mắt đều làm người nghe phải khóc theo. Bả không có khóc, mà sao trong giọng hát của bả tui lại thấy một trời “Tiếc thương ca” và “Chinh phụ ngâm khúc”, bả biểu diễn tới đâu – tui khóc ngon ơ tới đó.
Kiều Xuân hỏi:
– Có bài nào của Đại Hàn mà bà yêu thích nữa hông?
– Có, “Ugly” của ban “2NE1”, bài hát mà tui nghĩ dành cho tui. Bà biết hôn? Công-ty quản lý nhóm này đã từng chê họ xấu xí đó, cho nên họ mới bị thay thế…
Kiều Xuân ngắt lời:
– Bà đâu có xấu, có duyên ngầm là đằng khác.
Rồi tự nhiên con nhỏ đồng hương đổi đề tài, nó biểu con bạn mau mở hai bài mà nó giới thiệu lên nghe.
Nghe đâu được vài câu, đôi mắt Kiều Xuân đỏ lựng. Cô tự biết mình sẽ trở thành má của người đàn ông đó chứ không phải là vợ hiền chi sất, nhưng sao…
– Rồi, cô xong rồi, đứa nào vô tắm thì vô lẹ đi, kẻo nước tràn tốn tiền chết.
Cô Tư Lành mau lẹ ôm mớ đồ của mình đi vô nhà tắm.
Khi cánh cửa nhà tắm đóng lại, bà Ái Liên lại gần con nhỏ dại dột giống mình mà ân cần bảo ban:
– Giờ hai đứa chưa đi xa quá thì dứt khoát luôn cho rồi. Để dính cái bụng chình ình như cô thì ê mặt gia đình lắm.
Kiều Xuân khịt mũi rồi ngước đôi mắt ướt rượt lên nhìn người đàn bà không hợp đường tu ấy mà hỏi:
– Rồi đẻ xong gia đình cô hổng đón má – con cô về hả?
Bà Ái Liên cười khan:
– Ban đầu tính rước dìa, sau bị mấy con mẻ trong xóm Chùa đồn thổi là cô ăn nằm với sư trụ trì nên gia đình giận quá từ mặt luôn.
– Trời, người trong nhà không tin, đi tin miệng lưỡi thiên hạ?
Bà Ái Liên nhún vai. Đoạn kể:
– Thằng Thanh nó học rất giỏi. Đến năm mười bốn tuổi thì được bà con bên Thầy Đới Lan nhận làm con nuôi và bảo lãnh qua Mỹ sống. Vì sức học của nó quá cao nên nó vô Đại Học luôn dù chỉ mới có mười sáu tuổi. Nó lấy bằng Triết trước, sau mới lấy bằng Y, tới năm nó hai mươi ba thì đã ra trường đi làm kiếm tiền rồi.
– Ảnh về Việt Nam luôn vậy ba má nuôi ảnh có giận không?
– Con cháu thiên hạ chớ đâu phải ruột rà máu mủ mà họ giận với chả tiếc.
– Rồi ảnh có đền đáp công ơn gì không cô?
– Có. Nó nhượng lại một trương mục trái phiếu Hoa Kỳ có giá trị khá cao trong tương lai cho ba – má nuôi dưỡng già. Nó chơi sòng phẳng lắm con, và nó ghét nợ ân tình với ai hết.
– Bên bển, gia đình nào có con cái đi học cuối năm đều được khấu trừ thuế, thậm chí là còn được hoàn tiền thuế và cho thêm tiền nữa.
– Vậy là nuôi Thẩy có lợi chớ đâu…
Bà Ái Liên gật đầu.
Với nghiệp vụ trong ngành An Ninh của mình, Kiều Xuân thừa hiểu có uẩn khúc trong vụ nhận nuôi Thầy Thanh Liên. Nhưng cô cũng đủ khôn để không xoáy sâu thêm.
Về phần cánh đàn ông, ai nấy rủ nhau vô rừng tản bộ; dù cầm chắc là họ sẽ bị lạc đường.
Những đám mây đom đóm mang lại chút ánh sáng cho đêm trăng lưỡi liềm. Không biết có phải là bởi bị chúng thu hút mà đường đi của nhóm anh em Công Giáo càng ngày càng sát mí núi.
– Cẩn thận! – Có tiếng ai đó vang lên.
Sáu Quới đã bị sẩy chân. Cũng may JB Khải và Henrico Thạnh kéo lên kịp thời.
– Tôi là Sa-di Duy Hảo.
Vì trời tối quá nên nguyên đoàn không thể thấy rõ mặt người tự xưng là Sa-di, chỉ đành giao mạng cho cậu ta mà thôi.
Ignacio Cường cắc cớ hỏi:
– Anh là ứng sinh mới theo Đạo hả?
Duy Hảo gật đầu.
– Anh có thể cho tôi biết đôi nét về Đức Phật được không?
– Đức Phật rất coi trọng nền Cộng Hòa và luôn ngăn ngừa chế độ độc tài Quân Chủ Chuyên Chế thông qua những bài giảng của mình. Vốn dĩ tiểu quốc Thích Ca là một chư hầu của nước láng giềng Kosala, theo thể chế Cộng Hòa, chứ không phải là một quốc gia hùng cường hay độc lập hoàn toàn. Điều này tôi suy ra sau khi đọc “Phẩm Vajji (Vajjisattakavagga)”, “Phẩm Nghiệp Công Đức”, “Phẩm Chuyển Luân Thánh Vương – Sư tử hống” và “Kinh Bổn Sanh (Jataka)” – hay còn gọi là “Kinh về tiền thân của Đấng Thế Tôn”, Kinh này thuộc “Tiểu Bộ Kinh (Khuddha Nikaya)”.
Sau này, độ khoảng vài trăm năm, vua A Dục đã cưới một cô gái thuộc dòng tộc Sakya làm vợ. Ông cũng là người truyền bá Phật Pháp mạnh mẽ.
– Bây giờ còn ai thuộc dòng tộc Thích Ca không anh? Và họ đang ở đâu?
– Theo một vài sử liệu thì họ đang ở Gandhàra, một khu vực thuộc phía Bắc Ấn. Số khác thì cho rằng họ đang lưu lạc bên Nepal hay thậm chí là Pakistan – Tây Hồi.
Còn cách gành nước chừng trăm mét, Duy Hảo ra hiệu ngừng bước rồi chỉ vô cây gừa đại thụ mà nói:
– Mấy anh cắm trại ở đây nè. Sau lưng gốc cây gừa là khu nhà vệ sinh, bên tả là đường xuống Sân Tiên, còn bên hữu là về tịnh thất.
Từ biệt Sa-di Duy Hảo, nhóm anh em Dòng Chúa Cứu Thế bắt tay vào dựng lều cắm trại. Thay vì dựng những cái lều nho nhỏ, họ lại dựng một cái lều cỡ lớn theo kiểu của Thành Cát Tư Hãn, tức là một lều có thể chứa hơn mười người. Kiểu lều này vừa thoáng đãng vừa rộng rãi vừa có thể giữ ấm khi trời trở lạnh hay đổ mưa bất chợt. Chừng khoảng nửa tiếng hơn, cái lều của nguyên đám mới hoàn thành.
Nhân lúc chàng mập Cao Đài chưa lại ngủ chung, nguyên nhóm xúm lại đọc Kinh Tối và lần chuỗi Mân Côi. Bàn thờ được bày trên hai cái rương xếp chồng lên nhau: Tượng Chúa chịu nạn của Henrico Thạnh, nến thơm của Louis Quế, tượng Đức Mẹ Maria của Stephen Đoàn, chuỗi Mân Côi mà Richard Lãm đã làm tặng Ignacio Cường và hộp quẹt của JB Khải. Người chủ tế lần này là John the Baptist – Trương Tấn Khải.
Giữa bồn bề râm ran tiếng lưỡng cư và họ nhà dế, tiếng kinh cầu của nhóm con dân Chúa vang lên trầm hùng và đượm buồn khôn cùng. Mảnh trăng lưỡi liềm đã phiêu dạt về Tây, chút ánh sáng ít ỏi biến mất, nhường chỗ cho những đám mây đom đóm ma mị như ru.
Sau giờ Kinh Tối, các Giáo sĩ thảo luận với nhau về cách tổ chức Mùa Chay sắp tới cho Giáo xứ St. Pio. Nhắc tới xóm Đạo mới nhớ tới cố Phêrô Toàn, không biết sức khỏe của cố ra sao nữa; nửa lo cho cố, nửa lo cho tương lai của hai cậu em, nên ông Sáu bèn mở máy mà gọi điện thoại cho cố.
Sau khi nghe hết bản nhạc chuông “Đàn chim Việt” của đôi nhạc sĩ Văn Cao – Phạm Duy do Lệ Thu trình bày, ông cố già mới đủng đỉnh bắt máy. Nghe loáng thoáng bên nhà của cố đang diễn ra một trận đánh cờ tướng hết sức gay cấn, chỉ cần đi sai một li là cụ sẽ thua độ ông bạn.
Louis Quế ráng nhăn hàm răng ra cười mà niềm nở hỏi ông cố:
– Cố…
– Mày đang ở đâu đó Quới?
– Đủ mặt hết luôn cố.
– Rồi tụi nó sao rồi? Chừng nào về trển?
– Ăn ngủ mập thây ra chớ có khổ ngày nào đâu mà cố lo cho tụi nó.
– Còn câu thứ hai của tao đâu?
– Hên xui.
– Xui khỉ gió mày chứ xui. Học Giáo lý bao nhiêu năm mà trả lời lãng giang vậy hả?
– Ghẹo xíu mà cố dữ quá.
– Giáo dân ở đây nguôi ngoai hết rồi.
– Với lại với cái nết của Giáo dân xứ mình thì đố Dòng nào dám vô quản xứ.
– Ừ, có mình thằng Cường là xử được, còn thằng Mỹ là “dụ” được…
– Còn con thì sao cố?
– Mày là chất bán dẫn trung hòa nguồn nhiệt hạch.
– Sao con thấy câu nhận xét này nó hơi trật đường rầy… À, vợ con của con sao rồi cố?
Cố Peter Toàn bật cười khúc khích:
– Công nhận hai đứa bây “phu thê tình thâm” ghê. Nó cũng vừa lại nhà hỏi tao có biết mày ở đâu không?
– Hỏi xong thì sao cố?
– Nó dắt con về nhà ngoại luôn rồi. Chừng nào mày dìa thì nó mới dìa.
– Mướn xe ngoài hay gì?
– Không, thằng Andrew Hồ lại chở. Andrew – Hồ Ẩn Long, nhớ chưa?
– Dạ…
– Đưa máy đây cho tôi nói chuyện với cố. – Ignacio Cường vừa nói vừa ngoắc ngoắc ngón trỏ.
– Dạ.
Ignacio Cường đi vô rừng nói chuyện riêng với cố Phêrô Toàn.
– Ủa Cường đâu? – Vừa bước vào lều Khắc Xương đã hỏi như vậy.
Sáu Quới trả lời:
– Khả Hãn ra ngoài nghe điện thoại rồi.
Chàng mập đem theo một bịch đồ ăn và nước uống. Trên vai còn quải ba-lô đựng máy phát Wi-fi, pin sạc dự phòng, máy chiếu và Laptop; thoạt nhìn cứ tưởng chàng ta đang làm Biệt Động Quân cho một căn cứ quân sự bí mật.
– Tôi nghe kinh Cao Đài. – Vừa nói, Khắc Xương vừa đeo Airpods vô hai lỗ tai. – Biết các vị không thích nghe nên tôi không để tiếng đâu.
Henrico Thạnh đang ăn trái chùm ruột với muối ớt thì nhận được cuộc gọi của Augustino Dương. Chưa kịp mở miệng hỏi thăm lời nào, ông ấy đã đòi nói chuyện riêng với Stephen Đoàn.
– Ổng “qué” lắm rồi.
JB Khải gật đầu đồng tình.
Henrico Thạnh ngó theo bóng lưng của Stephen Đoàn mà hỏi:
– Hỏi thiệt anh nè Khải?
– Sao?
– Nếu như anh là một trong Pandavas, thì anh sẽ làm người nào?
– Tôi không thể làm Karna vì tôi quá hèn, tôi cũng chẳng thể làm Arjuna vì tôi chẳng “sơ tâm” như vậy, tôi càng không thể làm Bheem thiện lương và có sao thì biểu lộ ra ngoài mặt hết ráo. Chung quy, tôi hổng hạp với vai nào hết.
– Trong năm người mà anh hổng hạp được với ai sao?
JB Khải buồn rầu gật đầu xác nhận. Đoạn hỏi:
– Vậy anh chọn vai nào?
– Tui hạp với vai Chiến Thần Krishna hơn.
– Tại tánh ổng với anh hay cà khịa và chọc ghẹo người khác phải hôn?
– Phải.
Rồi đó, hai ông Cha xứ tương lai cùng nhau mở Kinh Cựu Ước ra mà soạn bài giảng và thảo luận những chỗ thắc mắc của mình cho người kia nghe. Sáu Quới đi vệ sinh vẫn chưa thấy về.
Ngồi nói một hồi, quay qua quay lại đã thấy chàng cư sĩ Cao Đài xếp bằng tọa thiền tự bao giờ. Hai bàn tay chàng ta đan vào nhau và đặt giữa hai đùi. Tính ra nãy giờ chàng ta cũng ngồi được gần cả tiếng.
– Úy trời đất ơi!
Tiếng kêu thảng thốt của ông Sáu đã làm Khắc Xương mở mắt. Anh nhìn người đàn ông lớn hơn mình mười mấy tuổi bằng ánh mắt khó hiểu.
– Cậu ngồi thiền được hả?
Khắc Xương cười xòa:
– Quen. Tập từ hồi còn mình hạc xương mai tới giờ, tính ra cũng đã mười mấy năm.
Rồi không đợi ông Thầy Phó Tế hỏi han thêm nữa, Khắc Xương viện cớ cần đọc lại hồ sơ của thân chủ nên không muốn bị làm phiền. Sáu Quới tự giác lui về chỗ nằm của mình.
– Đi đâu mà lâu quá vậy ông Sáu? – Henrico Thạnh vỗ vai hỏi Louis Quế.
– Súc miệng. Tối mà hổng súc miệng ngủ hổng được. Ở đẳng bồn rửa mặt bự lắm, nước sạch nữa, đánh răng đã đời luôn.
– Đi súc miệng hôn Khải?
– Đi.
Không biết đang nghĩ gì trong đầu mà sắc mặt của Khắc Xương dòm khó coi quá. Theo suy đoán của Sáu Quới thì có lẽ hồ sơ của thân chủ có vấn đề khó giải quyết nên anh ta mới bực mình dữ vậy.
Nhưng nằm hoài cũng chán, sau khi thấy hai thằng em người dưng về, Sáu Quới òn ĩ đòi làm Tarzan với tụi nó. Vậy là hai người kia đành phải đồng ý.
– Mới nạp tiền cho chú nè. Hai thẻ một lúc. Chịu hôn? Gì nữa đây? Đang diễn tuồng “Người tình Nguyễn Huệ” hay gì mà dòm tôi đắm đuối vậy?
– Chồi ôi, thấy thương hết sức vậy hà!
– Khỏi thương giùm. Tiền này của Thanh Liên chớ tôi có bỏ cắc bạc nào đâu mà thương với chả yêu.
Trên hành trình “Tây du”, nguyên nhóm cùng nhau hát vang bài ca Thiếu Nhi “Tiếng chim gọi đàn” của nhạc sĩ Hoàng Quí. Những người đã qua thời thơ ấu đẹp đẽ thoắt cái đã trở lại làm một bầy con nít vô ưu và không biết hận – thù.
– Sadhu.
Một người Tăng sĩ đẹp như Chư Thiên bước ra sau lùm cây bã đậu. Ánh mắt hòa ái và nụ cười chân tình ấy đã làm những người bạn mới cảm thấy rất gần gũi và dễ thương.
– Đi đường này nè các vị…
Băng qua rừng cây thốt nốt vô chủ, lại đến cánh rừng hỗn hợp thâm u và ken dày tiếng cú đêm cùng vạc ăn sương, kế nữa phải hì hục lội qua con rạch chỉ ngang tới mắt cá chân, mới thấy cái hẻm núi ấy. Do không thạo đường rừng nên trong chuyến hành trình đó không ít lần những Giáo sĩ Dòng Chúa Cứu Thế giẫm phải hang rắn hay ổ của “con công”, cũng may Thủy Diệu có thuốc xịt dọa bò sát và côn trùng nên không ai bị trúng độc mà thiệt lấy thân.
Hẻm núi, mà nhóm Tăng sĩ vừa trú ở đó để tọa Thiền, có chiều cao ước độ hai mươi mét và bề dài chừng đâu trăm mét hơn, do kích thước như vậy nên chẳng ai dám lại gần vì sợ rủi nó đổ xuống bất thình lình là chết tươi, nhờ thế mà bầy thú rừng còn toàn mạng và kỳ hoa dị thảo chưa bị tận diệt.
Khom người bước qua cái cổng kết từ thân của cây sanh, nhóm anh em Công Giáo bồi hồi nhớ đến những mẩu chuyện thần tiên diễm ảo của tuổi thơ mau qua, bây giờ họ chẳng khác nào đội thám hiểm tí hon của Peter Pan mang trên mình bao nhiêu là phép thuật và sự gan lì cóc tía. Qua cái cổng đó rồi, họ lại phải lội hết một cái gành nước mát rượi và đầy xác hoa – lá, kỳ lạ là ở đây có cả sa-giông, loài sa-giông tưởng đâu đã biến mất nay lại xuất hiện một bầy.
Sáu Quới chỉ bầy cá mà nói:
– Ngoài Bắc kêu con này là “Cá cóc”, trong mình kêu là “Sa-giông”.
JB Khải hỏi:
– Còn con dông khác nữa hả chú?
– Con đó sống ở cồn cát, cũng thuộc loại mang hình dạng nửa cá nửa bò sát như con này.
Henrico Thạnh ghẹo:
– Con dông đó nướng muối ớt ăn ngon lắm chú.
Sáu Quới rùn vai lè lưỡi:
– Y như ăn con kỳ đà. Gớm thấy mồ!
Hốt nhiên, trước mặt họ là một cái cây trổ bông cam rực. Ban nãy tưởng đâu là một hẻm núi khác phủ đầy dây leo, ai ngờ là một cái cây đại thụ râu ria bờm xờm.
– Cây Vô Ưu, đẹp không các vị?
Ai nấy đều tán thành với chàng Tăng sĩ đẹp trai.
– Năm xưa Đức Phật đản sanh dưới gốc cây Ashoka – Vô Ưu, đắc thành Chánh Quả ở gốc cây Bodhi – Bồ Đề và Niết-Bàn ở gốc cây Sala – Tha La. Và xuyên suốt cuộc đời hoằng pháp của Ngài có nhiều sự kiện quan trọng liên quan đến địa điểm có cây xoài.
Sáu Quới chép miệng bình phẩm:
– Công nhận cái màu bông y chang màu áo của anh.
Thủy Diệu bỗng buồn xo:
– Lúc Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, Ngài luôn cố gắng hạn chế gây thương tổn đến chúng sanh hữu lẫn vô tình. Vậy mà thời nay Ma Tăng và Phật tử mông muội lại đổ xô đi phá rừng làm nơi thờ tự; “Theo Ta mà không hiểu ta chính là báng bổ Ta” vậy.
Không hiểu có đụng chạm chi không mà nhóm anh em Công Giáo cảm thấy nhồn nhột sống lưng. Chúa giáng trần trong máng cỏ – hang lửa, khi lớn lên cũng không chọn nơi cao sang phù phiếm làm chỗ cư ngụ, và lúc phục sinh cũng ở một chốn rất đỗi bình thường; vậy tại sao lại có nạn Linh mục làm kiến trúc sư và “thợ vẽ” vậy cà?
Đi thêm khoảng vài trăm mét nữa, mới thấy nhóm Tăng sĩ Nguyên Thủy Phật Pháp – họ đương ngồi giữa đồng không mông quạnh, không nương nhờ bóng mát của cái cây nào hết. Trên đầu họ đương nhiên là dòng sông sao vô tận, từng chấm sáng giăng đầy khắp vòm trời thăm thẳm.
Đôi bên mau chóng giới thiệu danh tánh của mình. Xong xuôi hết thảy, nhóm anh em Công Giáo mới an tọa.
Sau khi kể sơ lược cho những người anh em của Ignacio Cường biết về chuyện của nữ thí chủ hôm hổm, Thanh Liên mới vào đề:
– Có lần, ngón chân cái của cổ bị đau như giẫm phải đinh vì cái khóe đâm vô thịt. Tối ấy, má cổ lên cơn ho, cổ mới đi kiếm bịch kẹo ngậm cho bà mặc cho chân đang đau. Do bịch kẹo để trong buồng của ba cổ nên cổ phải đi rón rén và lục tìm trong bóng tối, cổ khấn xin Chư Thiên cho cổ lấy thật mau để không phá giấc ngủ của ba cổ. Vừa khấn xong, cổ kiếm được liền: Bịch kẹo nằm ở góc khuất và bị nhiều món đồ lặt vặt chồng lên, vậy mà cổ vẫn thấy dù ở đó tối hù. Đưa bịch kẹo cho má cổ xong, cô thầm cảm ơn Chư Thiên trong lòng. Bất ngờ thay, liền ngay sau đó ngón chân cái của cổ hết đau! Hết đau một cách đột ngột đến nỗi cổ giựt điếng người mà quay qua nói với má cổ rằng sao tự nhiên ngón chân con lành rồi…
Kể ra thì ai cũng nghĩ cổ dựng chuyện để tâng bốc Đạo Phật phải không?
Nhóm anh em Công Giáo đã hiểu tánh của Thanh Liên nên không cả nể mà đồng loạt tặng cho cái gật đầu.
– Câu chuyện trên đây tôi muốn kể lại nhằm mục đích nói cho những ai mà còn mang tâm tưởng cúng chùa sẽ cầu gì được nấy rằng chỉ có lòng hiếu thảo và tâm thành kính bất vụ lợi với Tam Bảo mới họa may được Chư Thiên ngó xuống mà cứu độ thôi. Rất nhiều điển tích Phật Giáo đã thuật lại rằng hai điều trên đã cứu mạng Phật tử hay cải số của họ ra sao.
Thuở trước, Trưởng lão Cấp Cô Độc được thác sanh về Cõi Trời là vì điều thiện nào cũng làm và làm một cách bất vụ lợi; ngoài ra ông còn là một bậc hiếu đễ, chứ không phải có bao nhiêu tiền đều cun cút đi nuôi Tăng đoàn trong khi đó lại bỏ bê đấng sinh thành cùng mọi người xung quanh.
Ignacio Cường hỏi:
– Cổ còn có chuyện gì lạ nữa không anh?
– Có lần cổ bị giựt dây thần kinh mặt, đau như là bị ai lấy tay nhéo mặt vậy, vì ba má đều vắng nhà hết nên cổ làm liều uống luôn năm viên Decolgen trong vòng chưa tới mười tiếng đồng hồ.
– Trời đất ơi, phạm thuốc chết! – Sáu Quới thảng thốt kêu lên.
– Vậy mà cổ không chết, chỉ là bịnh tình không thuyên giảm mà thôi, phải mất gần một tuần cổ mới khỏe lại.
Nhóm anh em Công Giáo le lưỡi hết.
– Mấy anh nói coi khoa học giải thích sao về trường hợp của cổ? Xin nói thêm, đường ruột của cổ rất yếu và cổ còn bị kén thuốc kèm dị ứng thực phẩm nghiêm trọng.
– Chắc giới Y Khoa bó tay luôn anh ơi! – Henrico Thạnh cau mày mà nói.
– Cho nên, không phải cái gì cũng nên quy chụp bằng khoa học. Họ không chấp nhận Duy Tâm liền bịa đặt bằng Duy Vật. Nếu như người phát minh ra bảng tuần hoàn hóa học cho cái giấc mơ đó là mộng mị tào lao thì ngày nay nền văn minh của con người có tiến xa được như vầy không?
Tôi vẫn còn nhớ một cô gái gốc Á sống ở Hoa Kỳ đã nói trong một chương trình tài liệu về đề tài Tâm Thần học như thế này: Sau hơn nhiều năm bị bóng đè và mơ thấy ma quỷ, sức khỏe của cổ đã xuống dốc trầm trọng. Cho đến một ngày, cổ lại bị bóng đè nữa, lần này con quỷ đó mang hình dạng đen thui và có móng vuốt vô cùng sắc bén. Ngay khi nó sắp giết chết cổ, cổ quýnh quá mới kêu lên, “Xin Đức Jesus Christ cứu con.” Tức thì, con quỷ đó biến mất. Và kể từ ngày hôm đó, cổ đã thoát khỏi những triệu chứng trên. Bây giờ cổ là một Kitô hữu thuần thành và mộ Đạo khôn cùng, chứ trước đây cổ là một người vô thần và không làm theo bất kỳ hình thức tín ngưỡng của nền văn hóa nào.
JB Khải thắc mắc:
– Tại sao anh lại không giận khi Đức Phật bên anh bị nói là biến thân của Chúa Vishnu?
– Tại sao tôi phải giận? Tôi còn phải cảm ơn ngược lại mới đúng, vì nhờ luận thuyết của họ mà tôi mới chắc chắn rằng lúc sanh thời Đức Phật rất hoàn mỹ như trong miêu tả của Phật sử.
Chân Tâm bổ sung:
– Thuở xưa, hễ ai mà rất đẹp trai và tài ba đều được ví với Chúa Vishnu. Thành ra bên Ấn Độ Giáo mới có luận thuyết Chiến Thần Krishna là một người phàm, nhưng do quá xuất sắc trên mọi phương diện và tuấn mỹ không thua kém gì một bậc Thánh nên người ta mới coi chàng là một trong những biến thân của Ngài Narayana.
Đoạn Trần tiếp:
– Vả chăng, Sala là biểu tượng của Chúa Vishnu, mà Đấng Thế Tôn lại Niết-Bàn dưới cây Tha La, thành thử nhiều tín đồ và Guru Ấn Giáo mới nêu giả thuyết Ngài và Ngài Narayana là Một.
– Mấy anh thấy Ấn Độ Giáo ra sao?
Thanh Liên nhận phần trả lời:
– Rất là hay. Những câu chuyện huyền sử của họ đã giúp tôi hiểu thêm về Kinh Phật và lý do nào mà Đấng Thế Tôn đã phản bác lại một số luận thuyết trong Kinh Vệ-Đà.
JB Khải hỏi:
– Anh nghĩ sao về việc Đạo Phật ít ai theo?
Chân Tâm là người trả lời:
– Ma Vương tìm đến Đấng Thế Tôn và than phiền rằng, “Nếu ai cũng theo Ông hết thì bên tôi đâu còn ai?” Đấng Thế Tôn đang ngồi thiền, nghe vậy, mới mở mắt và chỉ tay vô rừng, “Số người theo Tôi bằng với số cây trong khu rừng này. Nhưng số người không theo Tôi lại bằng với số lá cây trong khu rừng này.” Nhận được câu trả lời đẹp ý, Ma Vương mừng rỡ ra về.
Thành ra ít người theo Đạo Phật là chuyện hiển nhiên, Đấng Thế Tôn đã nói từ rất lâu rồi.
JB Khải lại hỏi:
– Anh nghĩ sao về Giáo hội?
– Đấng Thế Tôn không cần Giáo hội hay một tổ chức nền nếp quy củ, trái lại, Ngài khuyến khích Tăng – Ni có thể độc cư và tự giác ngộ; thành ra không có kinh sách nào tán dương Tăng – Ni khéo ăn khéo nói mà thu hút đông đảo tín đồ và làm người ta muốn đi tu – Làm người ta muốn đi tu rất dễ phạm giới Vọng Ngữ, tức là mình dùng xảo ngôn để người ta nghe theo và thực hành như những gì mình nói. Xin nói thêm, sau này Ngài thành lập thêm Tăng già, dành cho những ai tu tập lớn tuổi và người già yếu không nơi nương tựa.
– Vậy có ai có biểu hiện làu thông kinh sử mà không thông qua các lớp Giáo lý bên anh không?
– Tôi cùng cổ coi clip giảng Đạo của một sư thầy khá nổi tiếng. Người đó chưa mở miệng nói, cổ đã nói trước và phân tích được luôn cái đúng – cái sai trong luận thuyết ấy. Vì clip này quay trực tiếp nên không thể nói là cổ đã coi trước rồi. Tôi ngạc nhiên hết sức nên mới hỏi, “Sao thí chủ biết?” “Tôi không thể nào giải thích với Thầy được. Kinh Phật nhập vào đầu tôi như nước lũ vậy, cứ hễ ai luận điều chi tôi điều có thể phản biện lại hết.” Đó không phải là sự tự cao tự đại, mà đó là sự thật, dẫu không biết Phạn ngữ hay tiếng Pali, cổ vẫn có thể hiểu nghĩa của câu kinh văn đó và đọc khá đúng.
Sáu Quới thắc mắc:
– Sao tôi thấy Đạo Phật hay gõ mõ vậy?
Đoạn Trần bật cười:
– Ai nói Đạo Phật gõ mõ vậy?
Sáu Quới chưng hửng ngó người thầy tu đáng tuổi chú mình.
– Theravada không có vụ gõ mõ và lần tràng hạt. Gõ mõ thường thấy ở Mật Tông, còn lần tràng hạt là ở Bắc Tông, Thiền Tông và Tịnh Độ Tông.
Tôi nhớ một người cải từ Đạo Phật sang Đạo Chúa mà còn khẳng định bên Phật Giáo có vụ gõ mõ và lần tràng hạt. Gõ mõ và lần tràng hạt ra đời sau ngày Đấng Thế Tôn Niết-Bàn, thời Ngài còn sống đâu có ai ê a gõ mõ và lần tràng hạt. Bên Mật Tông có gõ là gõ vô cái chén đồng, tục gọi là “Chén Hát” mà thôi. Ngài vốn dĩ không thích màu mè hình thức nên mỗi buổi tọa đàm do Ngài tổ chức thường không có trang hoàng gì sất; vả chăng, trên đường hoằng pháp, Ngài thường nói chuyện riêng lẻ nhiều hơn là số đông nên đâu cần phải bày vẽ làm chi?
Sáu Quới bật cười:
– Vậy là trước giờ nhiều người hiểu sai về Phật Giáo hết sao?
– Không những hiểu sai mà còn trật lất và thêu dệt luôn nữa.
Nhưng tôi nói luôn, “Đạo bất đồng bất tương kiến”, anh đừng nên tìm hiểu Yoga và Thiền làm chi. Tụi tôi theo Phật nên không có tập Yoga như Ấn Giáo, mà chỉ hành Thiền gần giống họ. Trong Giới luật mà Đấng Thế Tôn biên soạn khuyên Tăng – Ni không nên tập Yoga, ca hát, nhảy múa, đi đứng không tề chỉnh, luyện võ và làm các động tác như tập thể dục.
JB Khải hỏi:
– Gần giống là sao?
– Bên Ấn hành Thiền có nhiều tư thế, như ngồi xếp bằng lần tràng hạt, đứng thăng bằng trên một chân mà chắp tay Thiền,… Còn tụi tôi chỉ có một cách là ngồi xếp bằng có bắt ấn hoặc không mà thôi. Ngoài ra một số hệ phái Thiền của Ấn Giáo còn quán tưởng tới những đấng tối cao của họ, trong khi bên tôi chỉ quán sát hơi thở và đường đi của Nghiệp. Thành ra hai bên gần giống chứ không giống hệt khuôn.
JB Khải nhìn Trì Thương mà hỏi:
– Anh nghĩ việc hành Thiền có thể giúp khai mở luân xa và đạt được thần thông sao?
Trì Thương che mắt trái rồi bỏ tay xuống, sau mới nói:
– Không nên mừng vì thấy sự lạ trong khi Thiền, cũng chẳng nên lo âu vì thấy sự lạ trong khi Thiền; cứ để mặc chúng biến hóa cho thỏa thích, rồi tới lúc nào đó sẽ hổng còn một sự nào khởi lên trong tâm trí anh nữa, anh sẽ được giải thoát khỏi sự trói buộc và huyễn tưởng của tâm trí.
– Anh trả lời thẳng luôn đi chứ nói vầy tôi không hiểu.
– Không. Muốn khai mở luân xa và đạt được thần thông thì tâm phải bình – khí phải hòa, ngoài ra người đó còn phải sống đúng Bát Chánh Đạo nữa. Thành ra phần đông những ai nói khai mở được luân xa và đạt được thần thông là những người có vấn đề thần kinh do tâm tham trỗi dậy nên mới phát sanh “dị tượng” trong đầu óc họ.
– “Dị tượng” chứ không phải “Ảo tưởng” hả cậu?
– Thí dụ, tôi xin nhắc lại một lần nữa là tôi thí dụ, chứ tôi không có mượn cớ bôi bác Đạo anh.
Nhận được sự đồng ý của nhóm tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, Trì Thương mới nói tiếp;
– Anh ham gặp Chúa quá thì đầu óc anh sẽ tự vẽ ra cảnh tượng anh thấy Chúa và nói chuyện với Ngài ấy. Đó không còn nằm ở mức “Ảo tưởng” nữa mà đã nhảy lên “Dị tượng” luôn rồi, tức là mầm mống của chứng tâm thần hoang tưởng và rối loạn nhân cách.
Và đó không phải là lỗi ở Thiền, mà là lỗi ở anh. Chính vì vậy mà các Thầy của tụi tôi thường khuyên tụi tôi nên buông bỏ trong khi Thiền, thấy hay nghe cái gì trong lúc thiền cũng mặc kệ, ký ức tái hiện ra sao cũng chẳng quan tâm, nỗi lo hiện tại có thế nào cũng không đếm xỉa tới, có như vậy thiền mới giúp mình trong việc tu hành.
JB Khải nói:
– Tôi vẫn chưa hiểu lắm…
– Bây giờ, anh ráng ngủ mà không ngủ được, hai mắt anh lúc đó có nhắm lại không? Và anh cảm giác ra sao khi ráng ngủ mà cái đầu cứ mông lung chuyện cơm – áo – gạo – tiền ngày mai? Thì thiền cũng vậy, thiền mà cái tâm không tĩnh thì phát sanh dị tượng là lẽ đương nhiên.
Châu Lợi tiếp:
– Bây giờ có thêm người ngoại Đạo nói luật luân hồi là do bên Tàu nghĩ ra nữa.
Ignacio Cường hỏi:
– Vậy ai nghĩ ra trước?
– Kinh sách Ấn Độ ghi lại đầu tiên. Muốn kiểm chứng thì hãy coi qua “Áo Nghĩa Thư”. Không biết thì nên đọc thêm, chứ cái gì cũng nhận vơ giùm Tàu nó mắc cười dữ lắm.
Chân Tâm gật gù:
– Người càng cuồng tín thì càng mông muội, cho nên Đức Phật mới khuyên tụi tôi hết lời trong bài “Kinh Kalama”… Thành ra, dù không theo Hindu, tụi tôi vẫn phải đọc “Áo Nghĩa Thư”, “Chí Tôn Ca” và “Kinh Phệ-Đà” để nắm rõ đâu là lời Phật dạy và đâu là ngụy kinh do Bà-La-Môn biên soạn sau khi Đấng Thế Tôn Niết-Bàn.
JB Khải hỏi:
– Anh nghĩ điều gì mà chắc chắn Đức Phật đã nói?
Thanh Liên trả lời:
– Có hai điều mà chắc chắn Đức Phật đã nói đó là về sự Khổ và cách diệt Khổ.
Ignacio Cường nhìn Chân Tâm mà hỏi:
– Anh nghĩ sao về con rồng hả Tâm?
– Quan niệm con rồng của Đông Phương không đúng với cách nghĩ của Tây Phương đâu, nên đừng có ráp qua ráp lại, y hệt như trên thì mặc áo vest – dưới thì mặc quần lãnh Mỹ A vậy.
– Vậy theo anh nghĩ con rồng của Trung Hoa bắt nguồn từ đâu?
– Tôi không biết, nên tôi cũng không bày đặt nói càn hay gán ghép khiên cưỡng luôn.
JB Khải nhếch miệng cười:
– Có nhiều người không biết một chút xíu gì về Đạo người ta nhưng rất khoái bịa đặt những luận thuyết trật lất để chứng minh Đạo mình hơn Đạo người ta.
Trì Thương mỉm miệng cười:
– Mấy anh bực mình Ma Tăng xuyên tạc Kinh Sách Công Giáo, thì cũng xin đừng làm y chang như vậy với tụi tôi. Mấy bữa rày tôi đọc thấy mà bắt tức cười, cái gì cũng diễn giải sai hết,…
Y-Nhã Cường gật đầu:
– Tôi biết, nhiều lắm, tôi thấy và tôi phản ứng thì bị chửi là thằng phản Đạo.
Chân Tâm làm ấn thủ xác tín:
– Cho nên tụi tôi không rớ vô luận giải Kinh Sách của Đạo nào hết, chỉ nêu ra những câu chuyện hay hay và có ý tốt hướng Thiện của các tôn giáo mà thôi.
Sáu Quới hỏi:
– Có nhân vật nào trong lịch sử Phật Giáo nổi bật không?
Đoạn Trần trả lời:
– Người thống nhất Ấn Độ là Đại đế A Dục – Asoka. Lá cờ của Ấn Độ ngày nay được tạo hình dựa trên nguyên lý Phật Giáo. Rất nhiều chánh sách và bộ luật của Ấn Độ ngày nay được lấy từ tư tưởng của Đại đế A Dục. Tuy rằng Hồi Giáo và Ấn Giáo đã phá hủy gần hết công trình Phật Giáo và đốt rất nhiều kinh văn Phật Giáo, thậm chí triệt luôn cây bồ-đề mà Đấng Thế Tôn đã thành Đạo ở đó, nhưng tinh thần Nguyên Thủy Phật Pháp vẫn còn sống mãi ở xứ Diêm-Phù-Đề.
Louis Quế hỏi:
– Vậy cây bồ đề bây giờ nguồn gốc ở đâu?
Châu Lợi đáp:
– Nó là hậu duệ của cây bồ đề nguyên thủy. Cứ hễ bị triệt xuống, là ở đó lại tự nhiên mọc lên cây con; kỳ lạ ở chỗ là vị trí của cây bồ đề nguyên thủy và cây bồ đề hậu duệ chỉ xê xích nhau rất nhỏ, chưa được tới vài tấc nữa. Cứ thế, cứ thế, xuyên suốt hằng bao thế kỷ, mặc cho thế giới đổi thay ra sao, Thánh Tích của Đấng Thế Tôn vẫn còn nguyên vẹn trước mọi sóng gió thế gian.
Louis Quế lại hỏi:
– Mà có nhân duyên nào đã khiến vua A-Dục kết hôn với cô gái Thích-Ca không?
Châu Lợi đáp:
– Vào thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, có một đứa trẻ đang chơi với mấy đứa bạn trong xóm thì đã bỏ cuộc vui mà chạy ra cúng dường cho Ngài một cái bánh nặn bằng đất. Vì Thiện Nghiệp xuất phát từ lòng thuần thành với Tam Bảo mà lần chuyển sanh kế tiếp cậu đã trở thành Đại đế A Dục – Người đã thống nhất Ấn-Độ và chấn hưng Phật Giáo. Sự chuyển sanh của cậu đã được Đấng Thế Tôn tiên đoán từ trước và thọ ký cho cậu bé thành vua A-Dục ngay sau khi Ngài nhận cúng dường.
Louis Quế hỏi tiếp:
– Có sách nào chép về sự kiện này không thầy?
– Rất nhiều. Anh chỉ cần gõ trên mạng là thấy thôi.
JB Khải hỏi cắc cớ:
– Hình như Đức Phật nói mình chưa nói gì mà?
Chân Tâm trả lời:
– Đức Phật nói rằng Ta chưa từng nói gì hết, ý đó có nghĩa là những khái niệm đó không cần Ngài ấy nói thì thế gian đã và sẽ biết, lẽ thường chuyện hiển nhiên thì có nói cũng như không nói. Tôi nói ban ngày sáng, ban đêm tối, ngày mưa thì ban ngày trời cũng âm u như ban đêm; chuyện đó anh biết chưa?
– Biết rồi.
– Nhân – Quả không đợi Ngài ấy nói thì thế gian đã trải qua hết trơn rồi. Tất cả khái niệm có trong Phật Pháp đều là chuyện hiển nhiên; có người diễn giải đúng thì sẽ tỏ tường, gặp “thầy dùi” là đi đời nhà ma, còn ai nói gì cũng tin theo sái cổ thì có ngày đầu lìa khỏi cổ, do vậy mà Ngài mới nói câu Ta chưa từng nói gì hết để nhắc chừng chúng đệ tử phải cẩn thận trong việc tu hành và đừng tu theo kiểu đọc sao tin theo răm rắp mà chưa trải qua giai đoạn thực hành và tự thân kiểm chứng.
Vả chăng, những gì mà Ngài nói một phần đã được trình bày trong “Áo Nghĩa Thư” và nhiều văn tự khác có trước hoặc sau thời kỳ Vệ-Đà, Ngài là bậc thầy diễn giải cho chúng sanh hiểu tường tận để áp dụng đúng cách và nắm rõ hơn kiếp nhân sinh mà thôi.
Tỷ như anh viết sách mô tả con dao, tôi là người hướng dẫn người ta cách sử dụng con dao sao cho trở thành đầu bếp điêu luyện mà ít đổ máu nhứt.
Đoạn Trần bổ sung:
– Còn rất nhiều vị Phật quá khứ đã giảng nữa, nhưng theo quy luật bên nhà Phật, chừng nào toàn bộ Thánh Tích và kinh kệ của vị Phật đời trước mất đi thì vị Phật đời sau mới sanh ra, thành ra tới đời của Đấng Thế Tôn Ngài đã nói lại những kinh kệ của các vị Phật đời trước và cảm ngộ của chính bản thân trong hành trình “Danh và Sắc”.
JB Khải hỏi:
– Ở bên anh có khái niệm “Linh hồn” không?
– Không. – Chân Tâm đáp. – Tụi tôi chỉ có “Danh và Sắc” cấu tạo dựa trên Kết Sanh Thức và Ngũ Uẩn mà thôi. Trong cuốn Kinh tôi giới thiệu cho anh có nói rõ hết rồi đó.
Chòm sao Đại Hùng đã chếch về Tây. Thấy trời đã gần sáng rồi, hai nhóm quyết định trở về ngủ.
Thím Huê ngủ nhờ nhà của cư sĩ Chánh Tâm, tức ông thầy thuốc Sáu Diên, hồi nãy cùng mấy chị em coi phim vui quá nên không kịp xuống núi. Đáng ra thím đã ngủ chung phòng với họ, nhưng vì sợ ông già Sáu quên nên phải lại đây ngủ ké đặng sáng ổng quên còn níu ổng kịp.
– Sáng ở lại ăn điểm tâm rồi hẵng đi giao thuốc nhen thầy Diên.
– Dĩ nhiên òi, tui mê cái món bánh bột khoai môn của chị lắm đó.
Một cơn mưa rào nhẹ nhàng ghé thăm dãy núi Cô Tô hùng vĩ. Những người lữ khách bực mình mà chửi đổng trong miệng vì tốn công lên đây mà không ngắm được mặt trời mọc. Bình minh mang gam màu xám xịt không nề sự buồn bã của ai hết, nó để mặc cho không gian bủa vây mưa và gió lạnh.
Rồi mưa cũng tan, rồi sầu khổ cũng dứt, những áng mây xam xám loãng dần và tan ra như kẹo bông gòn bị thấm nước. Những cánh cò nhạn vút bay theo hướng gió nâng mây. Vầng dương rẽ mây mà buông xuống trần thế muôn vạn ánh sáng lóa mắt ấm áp. Nhưng đường vẫn còn sình lầy, chắc phải xế trưa cái nắng gắt đốt da ấy mới làm hong khô những con đường Cô Tô tươi đẹp. Vài cô nàng thị thành ngó xuống đôi giày hiệu bị dính sình lem luốc mà mắng vốn bạn đồng hành hết lời. Biết sao bây giờ? Núi rừng vốn đâu chứa chấp những mùi phấn son nực nồng hay danh – lợi phù vân.
Ước khoảng tám giờ rưỡi sáng, Chân Tâm dẫn nguyên đoàn đi khất thực.
Nhưng mới bước ra ngoài, nguyên đoàn đã chùn bước…
Khắc Xương, Quế Trân và Kiều Xuân quỳ gối mà dâng cơm cúng dường cho từng người trong Tăng đoàn. Khắc Xương dâng cơm tấm sườn – bì – chả – trứng, Quế Trân dâng canh bún miền Nam cùng một ly Sá-Xị và Kiều Xuân dâng trái cây tráng miệng.
Vì đây là lần đầu tiên được thí chủ cung kính quá đỗi nên Thiện Sanh và Hỷ Tín bối rối tới độ xém buông luôn y bát xuống đất, may nhờ có Duy Hảo nhắc nhở và nhỏ giọng hướng dẫn mà định tâm trở lại.
Chứng kiến cảnh tượng trên, nhóm anh em Công Giáo đứng nghệch mặt ra mà không “Biết nói lời gì”.
Sau buổi cúng dường, Khắc Xương cùng hai cô bạn xếp chiếu và quét sơ chỗ quỳ.
Khắc Xương vừa khiêng tấm chiếu vừa nhắc:
– Đừng quấy rầy các Thầy. Hãy để họ về núi Thọ Thực đi.
JB Khải lo lắng hỏi:
– Không có Phá Vân, ai chở mình xuống dưới?
– Còn chân không?
– Tôi hiểu rồi.
Sau giờ Thọ Thực của nhóm Tăng sĩ Theravada, nhóm anh em Công Giáo tìm đến hẻm núi mà đêm qua họ ghé chơi để chụp vài bức hình và quay phim làm kỷ niệm.
Dạo chơi ngoài hẻm chán chê rồi, nguyên đám lại rủ nhau vô hẻm núi ngoạn cảnh.
Nơi đây rộng hơn họ tưởng, đi một hồi lạc vô rừng luôn hồi nào không hay, giữa bốn bề thẳm xanh cây lá, họ chẳng còn xác định được đâu là phương hướng nữa.
– Ê, dòm kìa mấy đứa!
Một ụ nấm đỏ rực lạ mắt mọc trên một bờ đá rêu xanh, chúng phồng lên – xẹp xuống như người đang hấp hối, trong khi hít thở chúng sùi ra những bọt trắng trông rất tởm và độc hại. Không bỏ lỡ cơ hội được chứng kiến tận mắt ấy, ai nấy thi nhau ghi hình lại.
– Có lẽ đây là loại nấm sống nhờ ăn ruồi, muỗi và các loại côn trùng… – Stephen Đoàn nêu ý kiến.
Cũng may người nào cũng có đem theo bình sạc pin điện thoại nên giờ mới không lo cạn pin. Trong lúc nghỉ chân đợi sạc, Sáu Quới hát nho nhỏ bài Thánh ca “Bờ đá xanh tạ tội” của nhạc sĩ Đỗ Vy Hạ; nhân đây cũng xin nói luôn, tác giả cho rằng thể loại của nhạc phẩm này là “nhạc vào đời” nên không thích hợp đưa vào mục biểu diễn phụng vụ.
– Chú Sáu. – Ignacio Cường ngại ngần hỏi.
– Gì đó Cha Cọp?
– Dây thanh quản của chú đã từng mổ phải không?
Sáu Quới tự nhiên buồn hiu.
– Tôi nhớ hồi đó tôi có nghe một người chú trong Ca đoàn Thánh Tâm của Giáo xứ mình hát Thánh ca hay lắm, không biết bị bịnh gì mà phải đi mổ, về sau hát không còn ra hơi nữa.
– Chú bây bị uống thuốc câm. Không biết ai chơi xấu mà nhỏ a-xít loãng vô ly nước. Bây giờ chú bây nói được là còn mừng rồi.
Stephen Đoàn cười buồn:
– Chắc có lẽ là ghen với chú.
– Sao mấy vụ yêu đương anh rành dữ vậy Mỹ? – Ignacio Cường bực mình nạt.
Sáu Quới cất giọng giảng hòa, rồi gật gù xác nhận:
– Chắc vậy đó bây ơi. Dẫu sao vợ chú nhỏ hơn chú một giáp mà. Những mười hai tuổi chứ ít ỏi gì.
– Có ai khát nước hôn? Tui làm nước thốt nốt – mủ trôm đá đường cho mà uống.
Mấy người bạn của Phước Thạnh chịu liền.
Đang nóng hầm hì, miệng lưỡi khô ran, mắt mờ – tai ù, mồ hôi mồ kê nhễ nhãi, uống một miếng nước ngọt lành – lạnh ngắt nó đã cái nư gì đâu. Ai nấy tấm tắc khen ngon, rồi bắt Phước Thạnh pha thêm cho mình ly nữa.
Nắng chiều chiếu xiên qua những tán cây rậm rạp, dệt thành muôn vạn bóng nắng lung linh, bãi cỏ mà nguyên đám đang ngồi như được rải bột vàng, khắp chốn bừng sáng một cách nhiệm mầu.
– Ấu trùng ve sầu nè mấy đứa!
Stephen Đoàn cảm thán:
– Nó chưa kịp dâng tiếng ca cho đời thì đã vong mạng rồi.
Y-Nhã Cường huých vai Stephen Đoàn:
– Ông về làm Shakespeare đi.
Sáu Quới cự:
– Vậy là bây chưa đọc tiểu thuyết gốc do ổng viết rồi, viết nhiều câu giỡn tục tĩu lắm chứ không phải “lãng mạng hóa” từ đầu chí cuối như mấy bản dịch thuật đâu.
– Vậy chứ cha này giống ai?
– Ưm… Cha, chắc giống Ichikama Takuji, anh này chuyên viết tiểu thuyết diễm tình lâm ly bi đát. Con ghệ tôi mê bộ phim “Em sẽ đến cùng cơn mưa”, chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của ổng lắm, lần nào coi cũng khóc hết trơn.
Stephen Đoàn chỉ biết cười trừ.
Đến một cái động có cửa hang cao khoảng ba mét, nguyên đám nổi máu phiêu lưu mà rủ nhau đi vô thám hiểm.
– Lỡ có gấu chắc chỉ có thằng Mỹ còn sống.
– Ờ, con gấu để dành ổng làm tăm xỉa răng. – Henrico Thạnh tếu táo.
Tiếng cười của họ đã làm bầy dơi ngủ ngày tỉnh dậy. Một đàn quỷ đen có cánh vừa bay vừa kêu lên những tiếng the thé chói tai. Từng con, từng con bay sượt qua người họ, để lại những vết xước trên nón kết và nón trùm đầu của cái áo khoác mà họ đương mặc.
– Có khi nào tao thành Dracula không mấy đứa?
– Thôi đi ông nội. – Henrico Thạnh và Ignacio Cường nói gần như đồng loạt.
Chợt xa xa, có ánh đuốc của ai đó thắp lên mà sáng lòa cả một ngách hang.
– Quỷ hả bây? À không, ở đây có một đứa dữ hơn quỷ rồi, nên chú bây hết sợ rồi.
– Để cho con hiền nghen chú? Chân con què, chứ hai tay con còn nguyên-xi nhe.
Rồi từ nơi phát ra ánh đuốc bập bùng, ba người Sa-di bước lại gần nhóm tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế mà trao cho mỗi người một cây đuốc; sẵn xách đồ bớt để đôi tay của từng người Giáo sĩ ấy đỡ mỏi nhừ.
– Tôi là Duy Hảo. Cậu này là Hỷ Tín. Và chú kia là Thiện Sanh. Cả ba đứa tôi đều là Sa-di non trẻ.
Thiện Sanh nhìn thấy những vết xước trên vùng cổ và phần ức của những người bạn đường xa nên sốt ruột hỏi:
– Bị dơi cào trúng hả? Lát phải xức thuốc liền nghen. Lỡ dính bịnh dại mệt dữ lắm.
– Không nên xức thuốc đâu chú. Lát đưa họ xuống dưới chích ngừa bịnh dại liền và sát trùng theo kiểu Tây Y.
Sáu Quới không hiểu sao Sa-di Hỷ Tín không nói lời nào, nhưng cũng biết ý mà để đó trong lòng chứ không nói ra.
Đi theo sau lưng bộ ba Sa-di thêm hai chục phút nữa, mới tới được chỗ mà nhóm Tăng sĩ đang học bài và thảo luận kinh điển.
Chân Tâm cười hỏi:
– Có ai muốn đi vệ sinh không?
Nhóm anh em Công Giáo gật đầu ngay tắp lự.
Xong xuôi hết rồi, Sáu Quới sung sướng reo lên:
– “Và con tim đã vui trở lại.”
– Con gì? – Henrico Thạnh bá vai chú Sáu mà hỏi.
Y-Nhã Cường không niệm tình mà ký đầu anh bạn xứ dừa một cái thiệt đau.
Trong lúc Henrico Thạnh đang làm cho mỗi người một ly thốt-nốt mủ-trôm đá đườn, Ignacio Cường hỏi Chân Tâm:
– Anh thấy bộ Tạng Luận nào hay và hữu ích nhứt?
– “Tam Tạng Kinh”, một trong những Tạng Luận mà người theo hoặc muốn tìm hiểu Đạo Phật cần phải đọc qua. Cập 𝗻hậ𝑡 𝑡𝘳𝙪𝙮ệ𝗻 𝗻ha𝗻h 𝑡ại ﹛ 𝙏R𝙪𝙈𝙏 R𝖴𝐘eN﹒V𝗻 ﹜
JB Khải hỏi:
– Tạng Luận là gì hả anh Tâm?
– Cách nghĩ của tụi tôi khác với cách nhìn nhận của các Tăng sĩ trên thế giới về phạm trù này. Tức là sao, tức là tụi tôi gom những sách giảng về Đạo Phật do các Tăng sĩ sau thời Đấng Thế Tôn tại thế viết vô phần “Tạng Luận” luôn. Còn đại đa số Phật đường trên thế giới chỉ công nhận mỗi “Tam Tạng Kinh” là “Tạng Luận”.
JB Khải tròn mắt hỏi:
– Anh không sợ nghĩ vậy sẽ bị lạc Đạo hả?
– Không. Tụi tôi không bị ép phải nhứt nhứt tuân theo ý Thầy. Miễn sao cách nghĩ của tụi tôi tốt cho con đường học Đạo là được.
Ignacio Cường hỏi:
– Thanh Liên đâu rồi?
– Đi Tịnh Khẩu rồi.
Trì Thương nhìn Ignacio Cường mà cười hỏi:
– Anh rất thích nói chuyện với Thầy Liên?
Y-Nhã Cường gật đầu.
Chân Tâm lắc đầu cười xòa, đoạn biểu:
– Thanh Liên không thích chủ động nói chuyện với ai hết, thường thì người ta hỏi – Thẩy mới trả lời, anh chắc có Duyên dữ lắm Thẩy mới đổi tánh như vậy.
Mấy người anh em của Đức Cường ngó sững anh.
Chân Tâm lại tiếp:
– Mà, tôi khuyên anh thật lòng…
– Sao?
– Anh theo Chúa thì đừng tốn công đọc tài liệu bên Phật làm chi.
– Tôi cũng nghĩ vậy.
– Con người rất giỏi tạo ra xung đột thông qua lời ăn, tiếng nói và chữ viết; có người tức ông A nên viết bài bóng gió ông A, tự nhiên bà B đọc được thấy cũng có đôi nét giống bả cái bả nhảy vô chửi lộn với người viết luôn.
– Phải, con người rất giỏi suy diễn, nhưng rất khó tha thứ và có cái nhìn khách quan với mọi thứ.
Henrico Thạnh mời nhóm Tăng sĩ uống nước trước. Ai ở gần anh thì anh đưa trước, còn những người ngoài tầm với thì anh nhờ bên mình hoặc bên kia chuyền giùm.
– Có Kinh nào có thể nói tổng quát về Điều răn bên mấy anh không? – Sáu Quới hỏi.
Đoạn Trần trả lời:
– “Kinh Phạm Võng”. Kinh này người trong Đạo còn chưa nắm được, ngoại Đạo như anh tôi e là khó nuốt lắm.
– Không sao, đọc sơ qua thôi chớ đâu có nghiên cứu – nghiên mực gì mà sợ tôi nhọc sức.
Nhưng chú Sáu Tửng đã phải hối hận, đọc đâu được vài dòng, chú đã cảm thấy đầu choáng mắt hoa.
Chân Tâm bật cười:
– Nhức đầu rồi phải không? Kinh này tôi còn chưa dám để Thiện Sanh và Hỷ Tín đọc, nữa là…
JB Khải hỏi:
– Bên anh có bị buộc phải nghe theo lời của người đứng đầu Giáo hội không? Nói rõ, tôi không có ý so sánh Đức Thánh Phụ và Đức Đạt Lai Lạt Ma, càng không lên án, bắt lỗi hay bài xích hai Ngài; tôi chỉ muốn tìm hiểu về góc nhìn “Đức vâng phục” bên Đạo anh mà thôi.
Chân Tâm nhận phần trả lời:
– Tôi vẫn còn nhớ rõ những gì Đấng Thế Tôn nói, “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.” Thành ra tôi không bị bắt, mà cũng chẳng ai bắt tôi, phải vâng phục Đức Đạt Lai Lạt Ma hay ngài Tam Tạng nào hết. Các Thầy làm sai tôi cũng mạnh miệng chỉ trích và xét lỗi như thường, không bị gán là phản Đạo hay bất cứ ác ý nào hết.
Nhân vụ ồn ào mà Đức Đạt Lai Đạt Ma vướng phải, JB Khải ngập ngừng hỏi:
– Anh nghĩ sao về việc các thầy tu ôm hôn trẻ nhỏ?
Châu Lợi được các Thầy của ông mời trả lời:
– Tuyệt đối không nên làm. Cha – mẹ chúng thương mến thầy tu đó chứ tụi nó chưa chắc gì đã thích mà bắt tụi nó phải thân cận thầy tu đó. Hành động ấy không khác gì cưỡng ép tụi nó vậy. Nếu tôi thấy bên tôi có ai làm như thế, tôi sẽ lên tiếng phản đối liền.
Đọc lại Đại Phật Sử, không hề có bậc chân tu nào thân cận với tín đồ hết; nhứt là phái nữ và trẻ nhỏ. Trường hợp vạn bất đắc dĩ phải “thân cận” là Tôn giả Ương-Quật-Ma-La đã đỡ đẻ cho một thai phụ bị chuyển dạ giữa đường, vì nếu Ông không ra tay giúp đỡ thì sẽ khiến cả mẹ lẫn con gặp nguy hiểm đến tánh mạng.
Đoạn Trần bổ sung:
– Ngoài ra, được phép thân cận với người nữ nhưng trong vai trò Hiếu Nghĩa, tức là con chăm sóc và hầu hạ mẹ mà thôi. Hoặc là trẻ nhỏ mồ côi mồ cút, trường hợp này xảy ra rất nhiều sau khi vua Tỳ-Lưu-Ly diệt chủng Thành Ca-Tỳ-La-Vệ, hay nói cho dễ hiểu hơn là san bằng tiểu quốc của dòng tộc Thích-Ca, rất nhiều Tăng sĩ đã phải đón con – cháu của bà con trong họ về nuôi hoặc không tu tập ở tịnh xá nữa mà phải ở nhà cũ để trông coi xấp nhỏ ruột rà.
Sáu Quới hỏi:
– Nuôi bằng cách nào?
– Đi khất thực. Xin được nhiêu thì chia ra mà ăn.
Chân Tâm tiếp:
– Không luận đúng hay sai trong vụ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, cái điều mà tôi nghĩ dựa trên vụ này là dẫu cho cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp của đứa trẻ có cho phép hay đồng ý để nó thân cận thầy tu đi chăng nữa, thì thầy tu cũng nên lựa lời từ chối để tránh khởi sanh những tác ý không đáng có và sẽ gây ra hệ lụy đáng buồn giữa đôi bên. “Bồ-Tát sợ Nhân, chúng sanh sợ Quả”.
Y-Nhã Cường gật đầu:
– Phải, vạ miệng nói bậy một câu, bị công kích cả đời. Như Thầy Đới Lan của mấy anh vậy, chỉ có một câu, “Không ăn thì lấy sữa đâu cho con mình bú”, mà ông bị đồn là cha ruột của Kỳ Thanh luôn.
Chân Tâm cười biểu:
– Cho nên “Ý dẫn đầu các Pháp…” Và Đấng Thế Tôn luôn khuyến khích tụi tôi phải lánh xa cõi trần và ẩn mình tu tập nơi hẻo lánh.
Phú Lâm chắp tay mà bạch:
– Xuống núi liền đi các vị. Bịnh dại không thể giỡn mặt đâu.
Sẵn đang muốn đi chợ đêm, nghe vậy nên nhóm anh em Công Giáo hấp tấp quày gót trở về.
Nhờ sự dẫn đường của Phá Vân mà nẻo về của họ dễ dàng hơn ban nãy rất nhiều. Ai nấy đều tự trách cái tánh ẩu tả của bản thân đã khiến họ bị lụi mấy mũi ngừa dại vô duyên.
Tắm gội sạch sẽ và thay đồ thơm phứt hết rồi, độ khoảng bốn giờ hơn, nguyên đoàn mới khởi hành. Điểm dừng chân đầu tiên là một bịnh viện nhỏ gần đây, để lụi cho năm người kia mũi thuốc.
Ngọc Lan đang ca bài “Yêu nhau”, nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ ca khúc “Micol’s Theme” của nhạc sĩ Joe Brooks:
“… Yêu, không còn băn khoăn ngại nghi
Yêu, thì êm ái đường ta cứ đi
Cứ yêu nhau thật lâu
Đừng để cho đời sau
Ngồi nhớ tiếc Tình Yêu
Hỏi tim sao đớn đau…”
– Bài này còn có lời Việt khác mang tên “Tình xa khuất rồi” do Ngọc Hương ca, không rõ tác giả. Và một bản nữa “Khi tình xa rồi” của nữ nhạc sĩ Khúc Lan, lời này chỉ mới thấy Khánh Hà hát thôi. – Stephen Đoàn giới thiệu.
Qua những ruộng lúa ngát xanh, tiến vào lộ cái để quẹo phải vô đường chánh, đi độ khoảng một cây số rưỡi, mới tới được cái bịnh viện ấy. Sắp tới giờ nghỉ nên bác sĩ lùa bịnh nhân như lùa gà, hết hối lại la làng, “Lề mề quá”; cực chẳng đã mới vô đây nghe rầy rà, chứ lúc khỏe mạnh có cho vàng họ cũng không thèm ghé.
– Mấy đứa…
Mọi người ngó bà Ái Liên.
– Coi cô trảm Yêu nè.
Sau khi được sơ cứu vết thương, nguyên nhóm được chỉ xuống khu số Năm để chờ chích ngừa bịnh dại.
Đúng là xuống khu thiệt! Vì cái mặt của đội ngũ nhân viên Y Tế tối thui hà, nhìn nguyên cái khu không khác chi là Âm-Tỳ Địa-Ngục, sắc diện ai nấy y như cô hồn – dã quỷ vất vưởng trên dương thế. Đã vậy còn phải ngồi ngoài trời chờ đợi, dãy ghế đá kê dưới bóng râm của cây da sà càng khiến nguyên đám chìm trong bóng tối. Chỉ còn hai người nữa là tới lượt họ chích ngừa.
– Mơi lại chích được hôn? – Một cô y-tá bước ra thông báo.
Sáu Quới cự:
– Sao nãy giờ hổng nói?
Nhưng cô y-tá đã không còn ở đó nữa.
– Đi làm cực nguyên ngày, thấy gần tới giờ về không nôn mới là lạ. – JB Khải mặc lại áo khoác.
– Ủa mà chị Liên đâu rồi?
Khoảng đâu mươi – mười lăm phút, cô y-tá với gương mặt rạng rỡ như Tiên Nga trên cung Quảng Hằng. Cô niềm nở mời nhóm anh em Công Giáo vô phòng ngồi đợi chích thuốc.
Khỏi phải nói thì ai nấy cũng biết bà Ái Liên đã nhét tiền vô họng hết rồi.
Dù phải làm thêm nửa tiếng nữa, song được lãnh hơn một ngày lương ai mà không mừng, nhiêu đây cũng đủ mua thêm một món cho bữa tối rồi.
Rời khỏi bịnh viện có “Lương y như dì ghẻ”, nguyên nhóm ghé chợ đêm mới mở bên núi Cấm ăn tối và mua sắm. Thuốc ngấm vào người nên nhóm anh em Công Giáo đã hơi hầm hầm và khó chịu đôi chút, nhưng vì không muốn làm bà Ái Liên mất cơ hội đi chơi nên đành gắng gượng uống cử thuốc cầm cự.
…
Stephen Đoàn tập chơi khẩu cầm “Amour Perdu” của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Salvatore Adamo. Nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt thành bài “Tình đã tàn rồi (Tình đã tan rồi)”, bản này chỉ thấy có mỗi Ngọc Lan ca, chưa tìm ra ca sĩ khác. Nội dung bài hát gốc vẫn nhắc đến mùa Xuân.
“Đã xa người rồi
Đã tay chia tay
Đã tàn rồi, cuộc tình đầy oan trái…”
Người Linh mục phạm phải điều răn thứ Sáu ấy vừa hát vừa lấy ống tay áo dụi nước mắt. Gió rừng sớm đã khiến chàng bị cảm lạnh và hâm hấp sốt, chiếc áo mà nàng mua cho chàng hôm bữa đi chợ đêm Mỹ Tho như vẫn còn dư hương của nàng, không hiểu sao chàng chẳng thấy ấm, trái lại chỉ cảm nhận được cơn giá buốt như sương tuyết mùa Đông.
“… À ơi, Tôi ru thế gian này
Chớ nên đêm ngày miệt mài cơn mê đắm…”
Đứng từ đây không thể nhìn thấy nóc nhà thờ trong vùng, Thánh giá xa xôi quá, Stephen Đoàn không thể với tới được dù chỉ trong huyễn tưởng viển vông. Đôi tay chàng bất giác lần chuỗi Mân Côi mà Richard Lãm tặng cho, những hạt huyền ứng với một lần nức nở và hoang mang tột độ của chàng.
“… Đời Tôi tuy xa vắng Em rồi
Thấy sao đêm ngày đời mình tự do quá…”
Có tiếng gót giày giẫm lên thảm lá héo hon.
Stephen Đoàn giựt mình quay phắt lại mà ngó dáo dác, như con nai đang lẩn trốn thợ săn mà bị chính kẻ đó bắt gặp vậy, chàng rùn vai mà lùi về sau từng bước.
– Trì Thương.
Nghe tiếng thở phào nhẹ nhõm của người Linh mục trạc tuổi mình mà chàng Tăng sĩ tên Thảo bật cười.
– Sadhu. Bạn bè của anh rủ anh xuống thăm họ Đạo gì đó rồi sẵn đi ăn luôn.
Stephen Đoàn vừa khụt khịt mũi vừa lau lệ mà rằng:
– Vậy hả anh Thảo? Cảm ơn anh nhe.
Trước lúc trở về hẻm núi để ôn kinh sách với huynh đệ đồng tu, Trì Thương nắm tay kéo Stephen Đoàn thật mạnh về phía mình và mỉm miệng cười mà biểu:
– Mà nè, anh đang ở trên núi, xin đừng tùy tiện lùi ra sau.
Lúc này Stephen Đoàn mới hay, vừa nãy anh đã đứng trên ổ rắn nằm chửa! Xém chút nữa là con rắn đực đã lấy mạng anh. Cũng may Trì Thương thông minh nên không la lên, thành ra anh mới không bị hoảng loạn mà giẫm nát ổ rồi bị con rắn đực cắn chết.
Sắc áo cam đẹp như màu ráng chiều chìm theo tầng tầng lớp lớp lá rừng thâm u. “Không nắm là có tất cả, vì khi tay ta bận nắm thứ gì cũng là lúc bỏ lỡ những thứ khác”; ấy là triết lý nhà Phật mà rất nhiều bậc Minh Sư đã diễn giải lại theo cách hành văn và phát biểu của các Thầy ấy. Có lẽ nhóm Tăng sĩ này đã có được tất cả theo quan điểm triết lý bên Đạo họ…
Phá Vân lãnh phần chở nhóm anh em Công Giáo. Anh vừa rành đường vừa lái giỏi mà lại không tốn thêm tiền mướn người nên ai nấy đều năn nỉ ỉ ôi mong anh chở đi giùm. Anh không quên dành một ghế cho cư sĩ Chánh Tâm và hai ghế cho cư sĩ Khắc Xương; một người đi giao thuốc và một người đi mua đồ ăn – thức uống.
Ước độ ba tiếng rưỡi, nguyên đoàn mới trở về núi, đem theo thím Huê và lủ khủ bao – bịch thơm nức mũi.
Bà Ái Liên và hai nhỏ xứ dừa đang chơi bài tứ sắc trong phòng. Biết đêm nay thím Huê lại ngủ nên ba người trải thêm một tấm chiếu và bày sẵn mền – gối. Do diện tích quá nhỏ nên tấm chiếu vừa hay sát với cửa nhà vệ sinh, thành thử tuy mang tiếng mỗi người một chiếc nhưng họ phải nằm dồn lại với nhau.
– Huê.
– Bữa nay coi phim gì vậy chị Liên?
– “Rising sun – Roy rak hak liam tawan”, phim “đa quốc gia”: Diễn viên Thái Lan, bối cảnh Nhựt Bổn, ăn bận giống bộ “Bến Thượng Hải” do Hồng Kông sản xuất. Có hai phần lận, mình coi phần Một nhe Huê?
Thím Huê chúm chím cười, rồi xin phép tắm gội cái đã rồi mới ra coi chung được.
Vậy là trong lúc chờ đợi nhỏ bạn, bà Ái Liên rủ hai nhỏ cháu gọt cóc để lát chấm mắm ruốc ăn. Quế Trân gọt vừa khéo vừa mau, trong khi Kiều Xuân lọng cọng cả buổi mới xong; bà Ái Liên không khỏi lo mắt của con Xuân có vấn đề hoặc uống thuốc nhiều quá sanh ra váng đầu mà quáng gà, do vậy bà không cho nhỏ cháu gọt nữa, mà sai nó đi làm chuyện khác. Quả nhiên, vừa đứng dậy, Kiều Xuân đã quỵ té xuống chiếu, rồi ôm đầu than chóng mặt.
– Chắc chưa ăn gì nên bồ bị tụt máu đó. Ngồi yên ở đó đi. Để tui với cô Hai làm hết cho.
– Chưa có gì với cậu Mỹ phải không?
– Dạ hông, con với ảnh đâu có gì đâu.
– Mà nếu có gì thì cũng ráng giữ đứa nhỏ, đừng có phá thai… – Bà Ái Liên xém chút nữa là cắt phạm vô tay, cũng may bà mang găng tay ngừa dao phạm vào tay nên bà mới không bị gì.
Kiều Xuân cười khổ. Sắp “đến tháng” nên nàng bị hành thôi chứ bầu bì gì ở đây. Tội nghiệp cô Hai, nỗi ám ảnh vì việc suýt bỏ con đã khiến bà gặp ai cũng liên tưởng đến chuyện năm xưa.
Cũng như phần đông phái nữ, thím Huê tắm rất là lâu, mất độ một tiếng thím mới chịu bước ra. Cô Tư Lành mừng húm, ba chân bốn cẳng chạy cái vù vô trỏng để đi tiểu, nãy giờ nín muốn chết rồi.
– Đi đâu nữa vậy Lành? – Kiều Xuân hỏi.
– Ông mập kia biểu tui mở cửa để ổng đưa đồ ăn.
Vừa mới mở cửa, đã nghe tiếng chàng luật sư nheo nhéo:
– Cho vô coi phim chung được hôn?
– Được. Nhưng, phải ngồi gần cửa đó.
Hôm bữa được Thanh Liên đãi một chầu KFC nên thím Huê ghiền luôn món này. Nhưng vì giá khá cao và nhiều dầu mỡ nên mỗi tháng thím chỉ ăn bốn lần.
– Nay chị ăn thử “Lotteria” coi có bằng “KFC” không nhe?
– Thương hiệu này của nước nào vậy cưng?
– Nhựt, chị.
Thím Huê nhìn ra được những nét hào hoa mà Khắc Xương đã đánh mất vì cái tật ăn thả cửa của mình. Rõ ràng, cậu này đang bị mắc chứng rối loạn ăn uống ở mức độ rất nặng; không chịu chữa trị kịp thời dễ dẫn đến suy tim mà chết bất đắc kỳ tử lắm.
Khắc Xương bật cười:
– Ở ngoài đời làm gì có chuyện Yakuza “lộ liễu” như vầy. Mà sao diễn viên nói tiếng Thái không vậy?
Bà Ái Liên giải thích:
– Chừng nào diễn với người Nhật mới nói tiếng ở bển, còn không là nói tiếng Thái hết luôn.
Khắc Xương nửa đùa nửa thật:
– Ủa hổng ai ở bên Phù Tang lên bài “Phim gì mà bôi nhọ luật pháp và công an xứ mình” hả mấy chị?
Bà Ái Liên tiếp:
– Thứ quởn mới ngồi rị mọ viết bài. Phim mà, cảnh sát mà xuất hiện liền thì làm sao thúc đẩy tình tiết và diễn biến cốt truyện; với lại liêm chính hết thì lấy đâu ra cao trào cho phim.
Ngồi coi đâu được hai tập phim, Khắc Xương hết chịu đựng nổi nên mở Laptop lên mà dò lại hồ sơ thuế của các thân chủ, để xem có điều chi sơ suất mà xảy ra sai sót không. Laptop của anh có kèm theo bút cảm ứng nên rất gọn cho việc đánh dấu lại những điểm nghi vấn và viết ghi chú. Và nhằm tránh máy tính bị xâm nhập, anh sử dụng Wi-fi thông qua cái máy phát mà anh mua; chứ không xài chung với mạng của ai hết.
Con nhỏ Tư Lành vẫn chưa ăn hết nửa cái bánh hamburger. Hèn chi mà cái tướng không khác gì con khô cá hố.
– Ăn nổi không? Ăn giùm cho.
Quế Trân liếc Khắc Xương thiếu điều muốn lọt tròng:
– Từ từ cũng vô bụng tui hà. Hối cái gì mà hối dữ?
– Sợ cô bỏ mứa thôi.
– Ăn chậm – nhai kỹ mới ngon chớ.
– Cô ăn như người theo Đạo Hồi vậy. Nhai đúng bao nhiêu cái mới chịu nuốt xuống.
– Nên bên bển đâu có nhiều người úc núc như ông.
Ngoài trời lúc này trăng đã lên cao. Năm nay Ngũ Tinh Quần Tụ, thời may trên đỉnh Cô Tô rất hiếm đèn điện nên nhóm Tăng sĩ có thể đứng quan sát một cách dễ dàng. Giữa bốn bề cỏ cây xanh mát, tuy hãy còn sớm nhưng họ nhà dế đã cất cao tiếng hát. Trên những tàng cây bị nhuộm màu u tối của màn đêm, vài con chim non đang kêu khóc nho nhỏ. Mảnh trăng lưỡi liềm nằm chơi vơi giữa thinh không như chiếc thuyền con trôi lạc giữa dãy Ngân Hà.
Cũng trong khi đó, Stephen Đoàn ghé nhà một Giáo dân có con trai bị té lầu trong lúc xây nhà cho người ta, nhằm làm Bí tích Xức Dầu Bịnh Nhân. Dù vẫn còn mặc cảm tội lỗi nhưng bây giờ anh không đi thì ai đi, bạn bè của anh đều có việc riêng hết rồi.
– Thưa Cha.
Do ngôi nhà nằm tuốt trong một con hẻm ẩm thấp nên người Giáo dân đó phải đứng ở đầu hẻm mà rước anh vô. Qua những ngôi nhà giàu – nghèo đan xen, Stephen Đoàn nhận thấy được khoảng cách giàu nghèo trong cái xã hội này khủng khiếp tới cỡ nào; anh vừa dắt xe vừa nghe người trai trạc tuổi mình say sưa kể những mẩu chuyện vụn vặt hằng ngày của gia đình anh ta, vẫn còn đó một niềm yêu đời lạ kỳ ở một gia đình cùng khổ này…
– Tới rồi Cha.
Ngôi nhà nằm ở giữa ngã ba đường. Cổng nhà vừa khéo đối diện với một trong ba nhánh lộ nên hay bị người ta lủi vô, do đó gia đình anh ta phải sửa cổng hoài, tốn tiền lãng nhách như vậy nên gia đình anh ta mới muốn dọn nhà đi chỗ khác ở, nhưng lực bất tòng tâm. Trong nhà cũng được mảnh sân khá rộng, mấy đứa trẻ có sân chơi nên hay rủ bạn bè hàng xóm qua chơi chung. Vừa dìu anh ta lên bậc tam cấp, Stephen Đoàn vừa nhắc chừng anh ta đừng đi mau quá kẻo ngã.
Nhà sau chia làm ba phần không bằng nhau: Phần lớn nhứt dành cho gian bếp và nhà ăn, phần kế làm nơi giặt giũ, phơi quần áo, kho chứa đồ và cầu tiêu – nhà tắm, và phần cuối cùng đặt bộ ván ngựa và để kệ TV đối diện với nó đặng có chỗ cho ông bà ngủ và coi truyền hình. Cửa hậu của ngôi nhà thông với một con đường vườn nên lúc nào cũng bị khóa trái nhằm ngừa đạo chích; vì sợ khách bị ngợp do mùi dầu mỡ – khói ám nên người Giáo dân đã phá lệ mở cửa đặng cho gió lùa vào nhà mà thay đổi không khí bên trong, xong đâu vào đó rồi, anh ta mời ông Cha Phó lại bàn ăn mà ngồi chơi, không quên mở quạt trần.
– Tôi muốn nhập xứ của hai Cha được không?
Stephen Đoàn gật đầu thật khẽ. Rồi mời người trai ấy lên bộ ngựa ngồi để anh thực hiện Bí Tích Xức Dầu Bịnh Nhân.
Sau buổi Lễ, Stephen Đoàn đi hâm hủ tíu gà giùm người trai gãy chân.
– Cha hâm được hôn Cha?
– Hông.
Vậy là người trai đó phải chống nạng mà đứng một bên chỉ dẫn và nhắc chừng. Hì hục cả buổi, ông Cha Phó mới hâm xong và bưng luôn ra bàn giùm anh.
– Cảm ơn Cha nha. Lâu rồi mới được ăn hủ tíu gà và uống trà sữa.
– Ra khỏi nhà thờ thì không còn Cha – Con chi đâu anh.
– Bắt đóng góp xây dựng Giáo xứ, mỗi khoản vài đồng nghe thì không bao nhiêu, nhưng tới một trăm khoảng thì nó không còn là con số bé mọn nữa.
– Ở xứ của tôi, anh Cường và chú Quới thì không có chuyện đó đâu anh. Ngay cả tiền giỏ chỉ thâu mỗi tháng một lần.
– Rồi có nạn Giáo dân phản ảnh là bị trù dập và vu cho cái tội chống phá Giáo hội không anh?
– Có.
Người trai ấy chưng hửng ngó chàng Linh mục xấu trai lom lom.
– Nhiều người bị mắc chứng coi Linh mục như Cha nên hễ ai đóng góp ý kiến là bị xử liền. Nhưng nhờ có sự anh minh và ngay thẳng của cố Toàn mà bây giờ trong xứ không còn quá nhiều người bị như vậy.
– Cố Toàn là ai? Cha Cố hả anhh?
– Cố Toàn là ông trùm kiêm Chủ tịch Hội Đồng Mục Vụ của Giáo xứ.
Người trai ấy bật cười khanh khách:
– Sao anh thẳng như ruột ngựa vậy? Nhiều người, không phải Cha nghen, hễ mà đụng tới lòng tự ái hay dính vô phiền phức là nói chuyện cà xí lắt léo hà.
– Nói vậy chi cho gãy cái lưỡi? Mình có sao nói vậy cho khỏe cái đầu. Sẵn biết luôn tâm tình người nói chuyện ra sao.
Người Kitô hữu muốn nhập xứ nhìn ông Cha Phó hãy còn rất trẻ mà nói:
– Cha làm đúng rồi đó.
Stephen Đoàn rũ mắt hỏi:
– Đúng cái gì?
– “Thứ nhứt: Cho kẻ đói ăn.”
Stephen Đoàn bật cười khúc khích. Đoạn hỏi:
– Giờ kẻ đói muốn ăn gì nữa hôn?
– Ăn kem.
Tự nhiên Stephen Đoàn nhớ tới một câu chuyện có thật mà tưởng như chỉ có trong phim: Một nhóm thợ hồ được gia chủ mời ăn kem ốc quế giải khát, nhiều người trong số họ đã cầm ngược cây kem mà ăn tỉnh queo! Chứng tỏ những người ăn kem ngược đó chẳng hề biết ăn gì ngoài ba bữa chánh thường nhựt. Chuyện này xảy ra tại tỉnh Bến Tre, nhờ một lần theo trường Dòng xuống làm chương trình thiện nguyện mà anh đã được đích thân chứng kiến cảnh tượng trên.
– Bộ tôi đòi hỏi quá đáng lắm hay sao mà anh im ru vậy?
Stephen Đoàn thở dài, rồi cười khổ mà vừa xua tay vừa lắc đầu nguầy nguậy:
– Không…
Rồi Stephen Đoàn kể cho người Giáo dân nghe chuyện anh đã gặp.
Nghe xong, người trai ấy có vẻ rất xúc động vì nghĩ chuyện người mà ngẫm lại phận mình. Anh sực nhớ nhỏ con chủ nhà, chủ nhà mà đã tính toán từng đồng với nhóm thợ hồ các anh đó, con nhỏ ấy mua một ly trà sữa bằng với hai giờ công của anh. Con nhà khá giả, ăn uống nghe sao nhẹ tênh…
– Muốn ăn kem gì? Ly, ký, ốc quế hay bánh kem lạnh.
Người trai Giáo dân nuốt nước miếng cái ực:
– Bánh kem lạnh nghe ngon đó anh.
– Ngồi đợi tôi một xíu. Tôi chạy đi mua cho.
– Ủa mà biết đường hôn?
– Chúa sẽ chỉ đường dẫn lối cho tôi.
– Đừng có chạy lạc sang Đồng Tháp hay Kiên Giang nghen Cha?
– Hên xui.
Cũng may giờ đây “Baskin-Robbins” còn mở cửa, còn bao nhiêu tiền Stephen Đoàn mua luôn một ổ bánh kem lạnh. Nghĩ rằng anh chàng này hảo ngọt nên anh chọn loại vừa chua vừa ngọt cho ít ngán; sau một hồi cân nhắc, anh chọn hai ổ bánh có tên là “Berry Me (20cm)” và “Mint Tuxedo (15 cm)”.
Người trai ấy ngóng anh y như con đợi mẹ về; vừa mắc cười vừa cảm thấy tồi tội.
– Mèn đét ơi, đẹp quá há anh?
Stephen Đoàn vừa cởi nón bảo hộ vừa nhờ người Giáo dân mới quen đem vô trước cái bánh bự.
Sau một lúc ngắm nghía, anh ta chọn cái bánh nhỏ thơm hương bạc hà ngồ ngộ. Nghe ông Cha tên Mỹ nói không ưa ăn đồ ngọt nên anh ta chỉ cắt tượng trưng một miếng nhỏ xíu cho Cha ăn lấy thảo mà thôi.
– Trời ơi, ngon quá Chúa ơi!
Stephen Đoàn chỉ biết cười trừ. Ăn mới có mấy muỗng mà anh đã muốn “trào ngược bao tử’ rồi.
Ăn hết hai miếng bánh kem “Mint Tuxedo”, anh ta cất vô tủ lạnh rồi lấy bánh kem “Berry Me” ra cắt hai miếng cho mình và một góc nhỏ cho Cha Mỹ. Nhưng chưa kịp cắt cho Cha Mỹ thì Cha đã chắp tay xin kiếu.
– Ngon lắm đó anh.
– Ngon với anh, nhưng ngọt quá sức chịu đựng với tôi.
– Vậy chắc tôi bị thiếu đường trầm trọng nên ăn thấy vị bánh rất vừa và không ngán.
Bên nhà hàng xóm vẳng sang tiếng cãi lộn của ai đó, nghe người trai nói thì đôi vợ chồng này mới cưới nhau được có mấy tháng mà đã vỡ mộng Uyên Ương rồi, đời sống công nhân khổ cực đã làm cô vợ chán chồng và sự xuống sắc của người đầu ấp tay gối đã khiến anh chồng muốn bỏ vợ. “Tình là tình nhiều khi không mà có, Tình là tình nhiều lúc có như không…”
– Ở chỗ anh có xuống tay với mấy đứa con nít quỷ không?
Stephen Đoàn hồi thần. Anh thở dài một tiếng trước khi trả lời câu hỏi của người trai chân gãy:
– Không. Tụi nó chỉ là con nít, không thuộc Kinh hay quậy phá thì răn đe vài câu. Trường hợp hư hỏng quá sức thì bắt tụi nó đi trồng rau để dưỡng tâm mà thôi.
Anh ta hơi tò mò nên muốn biết tại căn cớ nào mà ông Linh mục này cứ thở dài hoài vậy. Anh tin không phải vì xót tiền, theo anh suy đoán thì chắc có lẽ ổng ngán ngẩm cảnh đời trần gian mà thôi.
– Có câu “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, tức “Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Có một cô gái bị cô giáo tán vô mặt suốt một năm học mà lớn lên bị trầm cảm nặng luôn, ăn uống thứ chi cũng mắc ói và dị ứng hết; nên đừng có biện minh “Thương cho roi cho vọt” cho cái tánh thích bạo lực của mình.
– Phải chi ai cũng nghĩ như anh thì đâu có nạn tự vẫn và “con giun xéo lắm cũng quằn”.
Trước lúc trở về Cô Tô, Stephen Đoàn để lại danh thiếp của văn phòng Giáo xứ trên bàn ăn, đặng anh ta biết đường mà tìm đến đó.
Tuy chưa rành đường nhưng Stephen Đoàn vẫn tự thân chạy lên núi. Chiếc xe này anh mướn của một ông xe ôm tuốt tận núi Sam, nhưng con gái theo chồng về Phụng Hoàng Sơn ở, thành ra ổng gởi mấy chiếc xe cũ cũ của mình cho vợ chồng con gái để tụi nó cho du khách thuê đặng kiếm thêm mớ tiền mà sống. Theo thỏa thuận giữa đôi bên, dựa trên hợp đồng đàng hoàng, thì tiền xăng khách trả nếu mướn xe hơn nửa ngày hoặc nhiều ngày; trong trường hợp xe bị trục trặc, nếu không phải do khách gây tai nạn mà là tự nó bị hư, thì chủ – khách chia đều tiền sửa xe và chở về.
Chạy được đâu một đoạn, vì trời tối hù mà đường lên trên trển lại thiếu “Đèn đêm phố nhỏ” nên Stephen Đoàn không dám “thi gan cùng tuế nguyệt”, thành ra anh dắt xe mà đi luôn.
– Ơi anh áo đen!
– Có chi hôn anh?
– Mướn tui đi, tui lấy giá rẻ lắm.
– Anh chạy xe ôm ở đây hả?
– Dạ hông, nhà tui ở trên này nên rành đường lắm, sẵn đang ở không nên kiếm chuyện kiếm tiền thôi.
– Vậy cũng được.
Do trong bóp không còn tiền nên Stephen Đoàn nhờ Ignacio Cường trả giùm.
– Anh qua đêm ở chỗ tịnh thất vô danh á hả? Ít ai lên đó viếng lắm.
– Tại sao vậy?
– Có cái gì đâu mà viếng.
– Người ta tu hành thiệt tình mà sao không tới chiêm bái?
– Thôi đi anh ơi, thời này toàn lựa mấy chỗ xây tượng đồ sộ và kiến trúc nguy nga như cung điện không hà.
Lời nói của người trai núi Phượng Hoàng đã khiến Stephen Đoàn toát mồ hôi hột. Anh nhớ lại nạn Giáo sĩ trị mà anh bạn Y-Nhã Cường luôn canh cánh trong lòng và sự sùng bái mông muội của rất nhiều con Chiên mà anh đã từng thấy trên mạng xã hội.
– Anh có cúng dường cho mấy Thầy ở trển lần nào chưa?
– Không, tui hổng có cúng, nhưng má tui thì có. Tháng nào bả cũng cúng một lần và thường là nấu đồ chay.
Đường đi mỗi lúc một dốc, không phải tay lái cứng cựa thì rớt đài là chuyện dễ dàng xảy ra, anh tài-xế xe ôm bất đắc dĩ cũng thôi hỏi han mà chú tâm vô việc lái xe. Stephen Đoàn ráng hết sức không bám quá chặt vào thanh ngang của yên xe để người ta dễ chạy, nhiều người sợ quá bám chặt vô xe mà khiến người cầm lái khó chạy muốn chết.
Qua những khu nhà mở cửa đón khách du lịch còn sáng đèn, chạy ngang những xóm vắng quạnh hiu, xuyên đến những vùng cây xanh – lá dày đầy tiếng cú kêu ảo não, một đỗi, một đỗi nữa mới thấy ngôi tịnh thất vô danh nằm đìu hiu trên đỉnh núi.
Ignacio Cường đang cho bầy chó hoang ăn đồ bán còn dư của thím Huê. Trong túi áo anh là mấy tờ giấy bạc mệnh giá lớn để trả cho anh xe-ôm của người bạn Stephen Đoàn. Tiền này ba má anh cho để anh sống, chứ từ lúc rời xứ là trong bóp của anh chẳng còn được bao nhiêu; tiền giỏ tháng này hai đứa không có lấy một cắc luôn.
– Trời ơi, đồ còn ăn được mà cho mấy con chó chi vậy?
– Muốn ăn hôn? Vô bếp lựa mà lấy. Cái nào ăn hổng được tụi tôi mới bỏ cho chó.
Chàng ta không khách sáo, sau khi kiểm tiền xong, liền hăm hở vô bếp lấy đồ ăn. Nhác thấy bà Ái Liên, chàng mừng rơn hỏi tía lia đủ chuyện; số là lúc bà ngoại của anh bị té, Cận-Sự Nữ này đã đài thọ toàn bộ chi phí điều trị và dưỡng bịnh, nên bà ngoại của anh mới còn sống khỏe ru đến nay.
Bà Ái Liên gắp cho thằng nhỏ con bà Hai Bích một hộp chân gà rim tàu-xì, sủi cảo tôm, bánh quai chèo, bánh hẹ, bánh xếp Triều Châu và cánh gà – cù lẳn chiên bơ tỏi. Không quên cho luôn tám miếng gà KFC, bốn gói khoai tây chiên và bốn cái bánh hamburger nhân tôm.
Tiễn chân người trai đó tới cây bồ đề, nơi mà mấy con chó đang ăn tối, bà Ái Liên mới trở vô nhà sau để dọn dẹp gian bếp và nấu nước cho mọi người uống trà an thần đặng dễ ngủ.
Người trai đó vừa rời khỏi, Sáu Quới lại mở nhạc lên nghe. Lần này chú chọn bài “Nhớ cánh uyên bay” do Hoàng Oanh ca, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Sáu Quới vừa nhón một miếng bánh xếp Triều Châu vừa hỏi bà Ái Liên:
– Lá cờ phướn treo vòng quanh tịnh thất mang ý nghĩa gì vậy chị?
Bà Ái Liên cười:
– “Thiền định – Trí tuệ – Tinh tấn – Thanh tịnh – Từ bi”, theo thứ tự “Xanh – Vàng – Đỏ – Trắng – Cam”.
– Hèn chi mà Raymond có pháp hiệu là “Hoàng Kỳ”.
Bà Ái Liên gật đầu xác nhận:
– Phải, có trí tuệ mới có được bốn điều kia.
Rồi bà cư sĩ nghiêng đầu mà nghía dĩa bánh xếp:
– Trước khi về, nói thím Huê một tiếng, cổ làm một mớ cho vợ con tha hồ ăn. Có gì tôi phụ tiền giùm cho.
Sáu Quới mừng rơn:
– Vậy cảm ơn chị nghen? Ghệ tôi ăn hàng dữ lắm. Í, sẵn, cho tôi xin hai chai dầu gội bồ kết; sanh con xong, hổng hiểu sao tóc của ẻm bị bết và nhiều gàu, ẻm khổ tâm dữ lắm mà tôi hổng có tiền để đưa ẻm đi spa dưỡng tóc.
– Vậy mốt tôi nấu xong, tôi gởi cho chú cho. Trả giùm phí gởi hàng là được.
– Vậy cảm ơn cô Xuân trước nghen?
Kiều Xuân gật đầu cười hiền. Sáng mơi cô sẽ đãi mọi người món cơm gà xối mỡ – hột gà ốp-la và canh rong biển – bí đao; riêng các thành viên trong Tăng đoàn không ăn trứng vì phải giữ Giới “Tam Tịnh Nhục”.
…
Tăng đoàn đang ngồi tụng “Hai mươi Bốn Duyên-Hệ – Patthana”. Người khởi xướng là Đại Trưởng lão Chân Tâm.
Đợi cho Tăng đoàn nghỉ lấy sức một lát, nguyên nhóm mới tụng trường kinh thứ hai. Và lần này, Đại Trưởng lão Thanh Liên là người khởi xướng.
Vì theo nhóm chưa được bao lâu nên Thiện Sanh và Hỷ Tín không đọc được bài “Thập Nhị Duyên Khởi (Paticca Samuppada)”, hai người cựu thù chỉ còn nước ê a lẩm nhẩm theo.
Kết thúc buổi tụng, hai Đại Trưởng lão cho các chúng đệ tử nghỉ ngơi nửa tiếng rồi hẵng quay lại tìm hiểu hai khái niệm quan trọng của Phật Pháp. Người nào người nấy rủ nhau đi vệ sinh và uống nước giải khát.
– Thiện Sanh, Hỷ Tín, sao tôi chưa giảng mà mặt mày hai đệ đã xanh mét rồi vậy? – Chân Tâm bật cười hỏi.
– Nhức đầu quá Thầy ơi… – Thiện Sanh khổ sở tâm tình.
Hỷ Tín không nói được nên ra dấu bị cắt cổ cho Chân Tâm hay.
Chân Tâm lắc đầu cười khúc khích. Đoạn làm ấn thủ “khai giảng” mà biểu rằng:
– Đêm nay tôi sẽ trình bày cho các huynh đệ biết thế nào là Duyên Hệ và thế nào là Duyên Khởi. Sự tương quan và tương hỗ giữa hai khái niệm này sẽ giúp cho các đệ hiểu thêm về Nhân Duyên ở cõi Ta-Bà.
Dù rằng vì bị câm nên Hỷ Tín không cần phải trả bài miệng, nhưng cậu vẫn phải viết ra theo cách đọc mà cậu nhớ cho các Thầy và các huynh coi.
– Sai nhiều quá. Chữ này là “Kổ” chứ không phải “Kồ”.
Hỷ Tín chắp tay mà gật đầu.
Duy Hảo ngồi dò bài giùm Thiện Sanh. Thái độ kiên nhẫn và dịu dàng của Duy Hảo đã làm Thiện Sanh mau tinh tấn hơn trên con đường tu tập. Người này mới xứng danh Sa-di, còn chú thì làm hổ cái danh ấy, nghĩ vậy nên sắc mặt chú buồn xo và nhiều phần mắc cỡ.
– Có sao đâu chú Tiều… Có ai mới vô mà giỏi ngang xương đâu…
– Nhưng mà, tôi học chữ Pali hoài mà không có vô.
– Mới học chưa đầy một quý thì không vô là chuyện hiển nhiên. Và đã là chuyện hiển nhiên thì không cần phải chứa trong lòng.
Hãy còn nửa tiếng nữa là tới giờ Thọ Thực nên Duy Hảo ráng dò luôn câu cuối trong bài “Duyên Hệ”. Lần này Thiện Sanh trả lời đúng, không sai một li. Hai người dòm nhau mà thở phào nhẹ nhõm, rồi thi nhau cười sảng khoái.
– Thôi, về tịnh thất ăn cơm thôi chú Tiều.
Về đến nơi mới hay hai người có mặt trước nhứt, những thành viên khác trong Tăng đoàn vẫn còn neo lại nơi rừng núi thâm u. Sáu Quới đang ngồi nói chuyện với vợ con thông qua ứng dụng Viber trên máy tính xách tay; nhờ máy phát Wi-fi di-động của Khắc Xương mà buổi chuyện gẫu của đại gia đình không bị gián đoạn bởi nhiễu sóng. Kiều Xuân và Quế Trân đang dọn mâm sắp chén. Và bà Ái Liên đang làm nước cam vắt – mật ong cho mọi người uống giải khát.
– Nhóm của chú đâu rồi chú Sáu? – Duy Hảo vừa kéo ghế cho chú Tiều ngồi, kế mới kéo ghế cho mình ngồi.
– À, đi thăm các Giáo họ rồi, bữa nay tôi bị cảm nắng với nhớ vợ con quá nên không đi chung.
– Gởi cho tôi chai dầu bồ kết chưa?
– Dạ con nhớ mà má. Vì gởi cho má mà con mới bị trúng gió nè. Mà sao bữa nay thấy “phì nhiêu” ra…
Biết mình đã phạm phải “cấm ngữ”, Sáu Quới cắn môi khép miệng im ru bà ru.
Maria Bích liếc chồng muốn rớt con ngươi, vừa nựng mặt thằng nhỏ mới ăn thôi nôi vừa nói mát nói mẻ:
– Nhớ con vắng nhà mà má mới mập ra đó. Khỏi hầu khỏi hạ đứa nào là lên ký liền.
– Dạ, con biết lỗi của con rồi. Má liếc một hồi coi chừng lé luôn đó.
Chị Sáu dầu bực cách mấy nhưng cũng phải xuôi xị vì câu đùa của chồng.
– Ai ở sau lưng mà dễ thương quá vậy anh?
Sáu Quới quay đầu mà ngó theo hướng tay trỏ của vợ:
– Quế Trân, còn gọi là cô Tư Lành, “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e” với cậu Xương. Tôi già rồi bà ơi, lại nghèo rớt mồng tơi nữa, gái đâu mà thèm theo.
– Có con gái già này nè.
– Giờ thành “Gái mẹ” rồi.
– Nín! Muốn ca bài “Đường tình đôi ngả” không?
– Dạ hông.
Nghe con trai trưởng lên báo người giao thức ăn đã tới nên Maria Bích lật đật chạy ra cổng nhận đồ và tặng tiền boa cho người ta. Bỏ lại ông chồng ngũ tuần ngồi nói chuyện với mấy đứa con.
– Trưa nay mấy đứa ăn gì?
Con Ba nhanh nhẩu trả lời:
– Dạ, “Bonchon”, ba.
– Vui hôn?
Vẫn là con Ba trả lời:
– Vui ba. Ba biết tụi con khoái ăn gà chiên với mấy món dầu mỡ mà.
– Ăn riết lùn y như má bây.
– E hèm… Tôi nghe rồi đó nha?
Nhác thấy Tăng đoàn đã có mặt đông đủ, Sáu Quới bèn kết thúc cuộc trò chuyện. Chú tắt Laptop, rồi cất nó trong hộc tủ của gầm bàn. Đoạn đứng dậy đi rửa mặt – rửa tay trước khi ngồi vào bàn ăn cơm.
Những anh em Công Giáo của Sáu Quới cũng đã tề tựu. Trên tay mỗi người là một bịch trái cây, một bịch thốt-nốt chẻ sẵn và một bịch chà-là cũng chẻ sẵn luôn.
– Dân ở đây gọi là “Thốt-lốt” chứ hổng phải “Thốt-nốt”. – Chân Tâm nói trong nụ cười.
Sáu Quới gật gù:
– Sau năm 75, nhiều chữ bị thay đổi quá chèn!
Henrico Thạnh đem thốt-nốt và chà-là bỏ vô tủ lạnh. Chiều nay anh sẽ đãi món lẩu mắm Long Xuyên và dồi trường heo chấy bơ tỏi, mong rằng ai ăn cũng thích.
– Cha, chiều nay nấu món mắm là Hoàng Kỳ với Thủy Diệu xỉu à nghen. – JB Khải phản đối.
– Ờ hen! Vậy thôi nấu bún cá Long Xuyên. Để chừng nào về trển rồi tôi sẽ chiêu đãi các vị một chầu lẩu mắm An Giang gốc Bến Tre.
Sau bữa cơm tĩnh lặng, Tăng đoàn trở về rừng, cánh đàn bà – con gái thì lui vô phòng nằm coi TV, Khắc Xương đã ra thềm ba mà mắc võng nghỉ lưng, Stephen Đoàn bị thuốc hành nên đã đi ngủ trưa – chiều nay lại phải chích một mũi, còn những người Giáo sĩ kia còn nhóm lại ở gian bếp của tịnh thất.
Ignacio Cường đang thảo luận với JB Khải về chủ đề “Giáo sĩ trị”. Tấn Khải là người mở đầu:
– Có người đăng một tin về chuyện không được đẹp bên Công Giáo, người đó sử dụng mẫu câu “Chuyện này có thật không vậy?”, tức là người này chỉ nêu lên nghi vấn và nhờ tín hữu xác minh chứ không hề khẳng định nội dung trong bài là thiệt hay giả; vậy mà rất nhiều Giáo dân nhào vô chửi rủa và vu khống người này là phường chia rẽ Giáo hội, cũng như loan truyền tin giả nhằm chống phá Giáo hội.
Đức Cường cau mày mà rằng:
– Tôi thật lòng mong những ai là Giáo dân chuyên siêng năng chia sẻ và phê bình những tệ nạn và mê tín dị đoan bên Phật Giáo, cũng sẽ làm y hệt vậy đối với Đạo mình. Nên nhớ điều răn thứ Nhứt, chỉ thờ Chúa mà thôi, chứ không phải thờ ông Linh mục nào hết.
Tôi là Giáo sĩ chứ không phải Thánh Ignacius de Loyola, nên tôi đâu thể sống một cuộc đời không phạm tội mà tôi nói gì cũng nghe và vâng phục một cách mù quáng.
Huỳnh Quới xen vô:
– Bữa đó tôi sợ Cha đánh Giáo dân ghê luôn.
Đức Cường bật cười:
– Họ nói đúng thì cự làm gì?
Huỳnh Quới vừa bào rau muống vừa lúc lắc cái đầu:
– Có lẽ Cha với Cha Mỹ là một trong số ít những Linh mục dám đứng trên Cung Thánh mà thú tội với Giáo dân.
Henrico Thạnh cắt ngang:
– Linh mục đại diện cho Chúa chứ hổng phải là Chúa mà tôn sùng quá thể.
Nhác thấy Thanh Liên, Ignacio Cường mừng rỡ mời người bạn khác Đạo lại ngồi chơi. Kỳ Thanh vừa an tọa đã nghe Đức Cường hỏi ý kiến về chủ đề trên.
– Tôi nói ra điều này chắc mấy anh giận lắm.
– Không, nói sự thật thì tụi tôi không giận đâu.
– Hồi trước, tôi có theo dõi một người trên Facebook và thấy một cảnh tượng ngồ ngộ: Hễ mà người này viết bài phê bình tệ nạn và sự mê tín dị đoan bên Phật Giáo là số bình luận và lượt thích đều từ nửa ngàn trở lên; nhưng, hễ mà người này viết chủ đề như vậy bên Công Giáo là số bình luận chỉ vỏn vẹn vài chục và lượt thích không bao giờ quá hai trăm. Vậy là sao?
– Anh… nói rõ hơn được không?
– Bên Phật hầu hết không binh vực Ma Tăng, thậm chí còn phê phán luôn những ai ủng hộ sự tuyên truyền và hưởng ứng theo lời nói của Ma Tăng. Bên Chúa, tôi chỉ đọc được những bình luận như “Amen”, “Xin hãy cầu nguyện…” hoặc gắn biểu tượng buồn bã mà thôi.
JB Khải nhận xét:
– Một bên đóng góp ý kiến và một bên kêu gọi cầu nguyện.
Louis Quế bình phẩm:
– Sự hiểu sai nghĩa “Đức vâng phục”.
Ignacio Cường góp lời:
– Có người Giáo dân tức quá đã nói, “Mốt cháy nhà thì ngồi đó cầu nguyện đi nha”, khi có người Giáo dân khác khuyên họ nên cầu nguyện cho người Linh mục sai phạm thay vì đăng lên mạng xã hội.
Henrico Thạnh vừa rửa bắp chuối vừa chép miệng nói:
– Bao che cho sự sai phạm của Linh mục không khác chi là dưỡng cỏ lùng.
Huỳnh Quới hỏi Đức Cường:
– Cha hổng sợ người ta ghét hả Cha?
– Tôi chỉ sợ sống trái ý Chúa, chứ tôi không sợ mích lòng với người khác. Chú còn nhớ câu chuyện Sơ Magdalena đã bị Thánh Ignacius phát hiện đều khuất tất sau những màn biểu diễn “phép lạ” của bà không?
– Nhớ. Lúc đó ai cũng tôn sùng Sơ Magdalena. Duy chỉ có số ít là nhận thấy điều dị thường, trong đó có cả Thánh Gioan thành Ávila – San Juan de Ávila.
Đức Cường chống hai tay lên bàn theo hình dạng kim tự tháp:
– Hễ ai nêu lên sai phạm của Giáo hội hay hàng phẩm trật: Một là “chơi tình quờ”, Hai là kêu gọi cầu nguyện, Ba là miệt thị người viết bài rất nặng lời, Bốn là khuyên người đăng nên gỡ bài xuống và không nên vạch áo cho thiên hạ xem lưng, Năm là đặt ra nghi vấn người đăng bài theo Đạo này – Đạo kia hoặc Vô Thần và Sáu, rất hiếm hoi, là đi xác minh và tìm hiểu thực – hư nội dung trong bài viết để bài trừ cỏ lùng (nếu có) hoặc minh oan cho Giáo hội.
Tôi trình bày xong rồi đó.
Chiều xuống. Henrico Thạnh bèn bắt tay vô việc. Dù đã đổi sang món bún cá nhưng hai người bạn ngoại quốc vẫn chịu hổng nổi mà bỏ vô rừng lánh nạn. Nếu mà anh ương bướng nấu lẩu mắm chắc cái tịnh thất này bị dỡ mất.
– Tui chưa từng thấy ai thẳng tánh như anh Thanh vậy Cường. Hèn chi mà anh khoái nói chuyện với ảnh.
– Phải. Cá mần sẵn hay gì?
Vừa chặt trái dừa xiêm, Henrico Thạnh vừa trả lời:
– Ừa, chớ mấy ông ở đây đâu chịu cho sát sanh trong tịnh thất.
Hì hục gần hai tiếng đồng hồ chàng Linh mục xứ dừa mới nấu xong các món. Sợ rằng nhóm Tăng sĩ chịu không thấu mùi tanh nên chàng cùng JB Khải và Louis Quế lau dọn và khử mùi gian bếp.
Dù đã cố gắng hết sức nhưng gian bếp vẫn nồng nồng mùi tanh.
Trì Thương bật hộp quẹt đặng xông trầm hương khử mùi uế khí. Đây không phải là trầm hương nguyên bản mà đã được sao thêm hoa khô và lá thơm, chứ rừng còn lại mấy cánh mà trầm hương dư thừa.
– Tôi không hiểu tại sao Đức Cha Thái đã nói chuyện với tôi một lần rồi mà bây giờ gặp lại lần nữa lại bày tỏ thái độ như chưa từng gặp nhau vậy. – JB Khải mà mắt ngó theo tay Trì Thương đăm đăm.
Trì Thương chắp tay mà thưa rằng:
– Thứ cho tôi nhiều chuyện…
– Sao anh?
– Tôi e là anh đã bị ai đó thọt rồi nên Đức Cha Thái mới không tin mà đến gặp anh đặng xác minh một lần nữa. Nhưng xét thấy thái độ của anh không có chi là trốn lánh hay có tật giựt mình nên ông ấy mới nhột mà cất tiếng xin lỗi anh, rồi sau đó mới biểu các bạn của anh trình bày lại cho mình nghe để phân định rõ thực – hư vụ treo Chén đó mà…
Tuy chẳng hiểu tại sao người Tăng sĩ này lại rành rọt chuyện của mình đến thế, song JB Khải không bận tâm đào sâu mà quay sang hỏi ông Thầy Sáu và người bạn đồng hương:
– Hai người nghĩ sao?
Sáu Quới vừa cắt móng tay vừa múm môi mà dài giọng ngâm nga:
– “Nắng mưa là chuyện của trời. Già rồi đổi tánh chuyện thường ông kia…”
– Tôi hổng có mượn anh làm Nguyễn Bính nghen?
Lần này Sáu Quới hết giỡn:
– Để tôi liên lạc với Cha Longiuns – Phước Kiến.
– Cha Longiuns – Phước Kiến hả chú? – Henrico Thạnh nhíu mày hỏi.
– Ờ, lựa cái tên Thánh y hệt như người. Trước đây từng được đề cử làm Giám Mục, nhưng không hiểu sao trước ngày tấn phong lại rộ lên tin đồn Thẩy có vợ con ở Châu Đốc, thành thử bị đình lại tạm thời. Sau này, biết Thẩy bị oan, Đức Cha Thái muốn tấn phong cho Thẩy như trong dự tính, nhưng Thẩy cười khẩy rồi lui về Đại Chủng Viện dạy học luôn tới giờ.
– Thầy đó nhiêu tuổi? – Ignacio Cường đứng ở ngạch cửa sau mà hỏi vọng vô.
– Lớn hơn tôi chừng bảy tuổi hà. Nhiều khi hổng tới nữa cậu.
– Mời Thầy ấy xuống liền được hôn?
– Trời đất ơi, làm như tôi có “Cân đẩu vân” vậy cha?
Y-Nhã Cường biết ông Sáu Tửng sợ phiền phức nên không chịu cho số, thành ra anh quay sang Mộc Thảo mà hỏi:
– Trì Thương. Anh biết số chớ?
Trì Thương che mắt trái, một đỗi lâu sau đọc lên một dãy số điện thoại di động.
Trong lúc Y-Nhã Cường ra ngoài sân gọi điện thoại, Sáu Quới níu áo Trì Thương mà run giọng hỏi:
– Cậu… có dị năng hả?
– Đừng thắc mắc.
Nói đoạn, Trì Thương bỏ đi một hơi vô rừng.
Khoảng đâu mười lăm phút sau, Y-Nhã Cường mới trở vô trong và thông báo với các anh em đồng Đạo:
– Thẩy nói xuống liền.
Huỳnh Quới kinh ngạc cực điểm:
– Jesus – Ma, ổng xuống bằng cách nào?
– Tự lái xe xuống đây.
Henrico Thạnh giỡn:
– Chắc ổng cũng găm lắm cái vụ bị hủy chức ngang xương.
Ignacio Cường bật cười:
– Đương nhiên rồi. Mình không có làm mà bị vu khống như vậy, ai chịu cho nổi chứ?
Biết rằng không cản được xấp nhỏ, Sáu Quới buồn hiu ra thềm nhà mà lên võng nằm. Vừa nằm đung đưa đón gió, chú vừa nghe những bản nhạc yêu thích cho khuây lãng tinh thần:
Nam ca sĩ hải ngoại Anh Dũng đang ca bài “Vạt nắng trong chiều” của nhạc sĩ Phan Bá Chức – Một nhạc sĩ bị thời cuộc xoáy mòn tài năng và làm lãng quên tác phẩm. Dù đã có IClound nhưng ông Thầy Phó Tế vẫn thích lưu trữ trong USB, để “Tưởng nhớ một mùi hương” ấy mà.
Đến khoảng mười giờ tối, Longiuns – Kiến đã có mặt ở tịnh thất vô danh.
Vừa nhìn thấy chiếc xe màu xám lông chuột, Phá Vân liền kêu lên thảng thốt:
– Chiếc xe gắn máy đó hiệu “Harleys-Davidson” thuộc dòng “Street Glide”.
Sáu Quới la lên bài hãi:
– Trời ơi, Cha gì mà đi xe đua?
– Có gì cho tôi ăn không? Đi gấp quá không kịp bỏ bụng miếng gì sất.
Henrico Thạnh lật đật chạy vô bếp hâm nước lèo và bắt bún.
– Coi tôi là cha nội cũng được, khỏi cần coi tôi là Cha Dòng.
– Tui khoái tánh Thầy rồi đó.
Ăn no căng bụng rồi, Longiuns – Kiến theo chân các trò về lán trại ôn lại chuyện xưa.
– Ủa? Đứa này là đứa nào nữa?
– Bên Cao-Đài Thầy ơi. – Sáu Quới cười tươi giới thiệu.
– Các vị cứ tự nhiên bàn bạc. Tôi sẽ vô rừng hành Thiền với Thầy Tâm.
Ngay khi miếng bạt rũ xuống, Longiuns Kiến nhập đề:
– Ban đầu, vì hết sức tin tưởng kẻ giả mạo Joseph Thành nên nó nói gì ông kia cũng tin. Tin sao hay quá đá lộn hết mấy cái Chén luôn. Sau ổng khôn ra, ổng nghĩ sao ông kia nói gì mình cũng nghe theo vậy, nên ổng không còn liên lạc với ông kia nữa. Được một thời gian, ổng nghe lời xàm tấu của ông kia, vì có hình chụp đàng hoàng và nhân chứng đầy đủ nên ổng không mảy may nghi ngờ lời kết tội của ông kia với bây. Chừng thằng Cường làm quá lên, thiếu điều nắm cổ áo ông Cha Giám Đốc mà làm “Godzilla”, cha nội này mới quíu mà sai người âm thầm đi điều tra bên tố lẫn bên bị tố, thì lòi ra bây bị gài.
Sáu Quới cười khổ:
– Hổng có ai nói Cường hiền hết Thầy. Thầy “Lầm” còn hơn Lam Phương nữa đó Thầy.
Ignacio Cường nhướng mày:
– Vậy hồi giải về tòa…
– Nó mua chuộc hết rồi bây à. Thành ra ổng mới huyền chức thằng Khải luôn đó. Còn cô Therese Thảo kia bị phạt vạ Thông Công, cổ tức quá mới bỏ xứ mà dìa Bạc Liêu làm “Cô lái đò Bến Hạ”.
Henrico Thạnh giỡn:
– Tưởng làm “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn”.
– Ừ, nó mà tải đạn được chắc nó cũng thả hết vô nhà của thằng khứa giả mạo đó rồi.
JB Khải lại phải kể từ đầu đến đuôi sự vụ oan trái kia.
– Nghe bây kể mà tao tưởng Việt Thảo tâm sự với khán giả của ổng không đó. Khuya rồi, kể giựt gân lên cho đỡ buồn ngủ coi!
– Cái giọng của con trời sanh “Bên dòng sông Trẹm” rồi Cha. Cha muốn con sửa thành “Trường ca sông Lô” hay “Hận sông Gianh” là không thể nào đâu.
– Thôi để “Kỷ Ngoại Hầu – Cường Để” kể cho sung lên một chút. Bây kể mà tao tưởng bây ru tao ngủ không hà.
– Trời ơi, bữa nay ông thành “Quý-sờ-tộc” luôn đó Cường. – Henrico Thạnh cười mà như mếu.
Với âm lượng không thua gì Hùng Cường khi lên nốt cao, chàng Y-Nhã nhà ta đã giúp cho ông Thầy ba-lơn tỉnh ngủ luôn. Thỉnh thoảng, trong cơn cao hứng, chàng quơ tay múa chân loạn xạ và tạo ra những tiếng động lớn như muốn xé rách lán trại bằng vải dù.
– Rồi, hiểu rồi. Tức là hai đứa nó đứng kế bên nhau, nó cao hơn con kia một cái đầu, thành thử lúc mà con kia bị sàm sỡ thì nó vung tay lên đánh trả, rồi thuộc hạ của thằng khứa đó mới lẹ tay bấm máy, nên mới có bức hình nó quàng qua vai con kia. Công nhận thằng đó chụp đẹp thiệt, mốt bắt được thằng khứa kia phải hỏi địa chỉ của thằng đó mới được, để có cần ảnh đẹp là hú nó liền.
Sáu Quới ngó ông Thầy Dòng mà bao nhiêu tâm tư đều bộc lộ ra hết, nên Longiuns Kiến mới biết mà giải đáp cho thằng em hay:
– Tụi bây đang thắc mắc sao tao ăn nói như Lương Sơn Bạc mà được đề cử làm Giám Mục phải hôn? Tại vì thường ngày tao nói ít mà làm việc cũng khá nên mấy ông đó mới bị lầm.
Henrico Thạnh vỗ đùi cái đét:
– Hèn chi mà Thầy khước từ lời tấn phong của Đức Cha Thái.
– Thà tự giác chứ đừng để người ta phát giác, con. Mình không có tài – có đức thì đừng có leo lên cao quá, làm dơ Giáo Hội của Chúa lắm.
Xấp nhỏ ồ à lên.
– Chứ tao đâu có giận gì ổng đâu.
Henrico Thạnh trề môi:
– Hổng giận mà phóng xe xuống đây liền.
Longiuns Kiến đáp tỉnh rụi:
– Tại tao nhiều chuyện…
Chưa nói hết câu mà các trò của Longiuns Kiến đã ôm bụng cười sặc sụa.
– Với lại buồn quá, xuống đây vài bữa chơi cho vui… Thôi. khuya rồi, tắt đèn đi ngủ thôi…
Vì lạ nước lạ cái, lại đi đường xa mấy tiếng đồng hồ, nên Longiuns Kiến không tài nào ngủ được. Ông uể oải nhấc cái thân già đứng lên, sau một hồi xác định phương hướng thì quyết định vào rừng ngoạn cảnh.
Lúc này chòm sao Bắc Đẩu đã dời gót về phương vị nằm giữa Bắc và Tây – Bắc. Cảnh vật chìm trong sự tĩnh mịch. Lác đác vài ánh đèn câu của những khu thờ tự và du lịch quanh sườn núi, còn ánh đèn dưới chân núi đã bị những tàng cây rậm lá và mây sà che chắn hết rồi nên ngó xuống chỉ thấy nhá nhem tối.
Men theo con đường đã được người dân bản địa khai hoang, Longiuns Kiến lần đến Sân Tiên. Giờ này chưa có ai lên đây chụp ảnh hay ngắm cảnh, nên ông không sợ bị ai làm phiền. Cũng may xấp nhỏ có đem theo bình nấu nước xài bằng pin nên ông mới có cà-phê để uống. Uống đến đâu, tâm trí của ông tươi tỉnh tới đó. Nhờ vậy mà ông mới nhớ ra những chuyện cần thiết và cần làm…
Rồi đêm cũng qua, rồi ngày lại ghé. Bình minh ló dạng sau những xẽo mây trắng lóa mắt. Không nhìn thấy mặt trời đâu cả, chỉ thấy mỗi một vành bán nguyệt sang sáng nằm phía bên kia thảm mây dày cộm. Đôi tiếng chim hiền lảnh lót ca lên khúc nhạc chúc tụng thanh bình. Đã có những tiếng bước chân ồn ã và tiếng cười đùa xôn xao của nhiều du khách mê say sơn thủy hữu tình; thấy vậy, Longiuns Kiến bèn quày gót về lại lán trại của xấp nhỏ, vừa đi ông vừa hát nho nhỏ nhạc phẩm “Đỉnh núi bình minh” của nhạc sĩ Y Vân mà ông đã từng nghe qua phần trình bày của ban “Tam ca Sao Băng”.
Xấp nhỏ đang đọc Kinh Sáng với nhau. Đúng là tuổi trẻ vượng khí, ngủ có vài tiếng mà sáng sớm vẫn tỉnh táo như thường.
Đưa mắt dòm vô trong góc, Longiuns Kiến thấy người trai đáng tuổi cháu mình đang ngồi xếp bằng mà lần tràng hạt và lẩm nhẩm theo cái gì đó trong Airpods. Có lẽ bài Kinh bên Đạo Cao Đài chăng?
Đợi hai bên xong xuôi hết thảy, Longiuns Kiến mới chắp tay mà hỏi:
– “Hội nghị Liên Tôn” dời về đây rồi hả bây?
Louis Quế cười rộ lên:
– Dạ hông. Đạo đứa nào đứa đó giữ. “Hòa đồng chứ không có hòa tan hay hòa trộn”.
– Vậy mới được chớ… Rồi ăn gì hôn? Tôi bao cho.
– Thầy bao hổng nổi đâu. – Khắc Xương khước từ. – Để tôi trả tiền cho.
– Cậu nghĩ tôi chạy cái xe kia mà hổng có tiền mời điểm tâm sao?
– Vậy nhà Thầy làm nghề gì?
– Bán và sửa xe gắn máy phân khối lớn và thông thường.
– Trời ơi, tốt quá! Mốt vợ con mua xe Cha làm ơn bán chịu nhe.
– Trời ơi, có một cái xe mà xuống làm con tôi luôn. Biểu vợ cậu ra hãng xe “A Tấn”, rồi gọi cho tôi, tôi sẽ giúp mua chịu một chiếc cho.
– Ủa vậy ra Thầy cũng là người Hoa?
– Hoa – Khách Gia. Nhưng vì trong một lần lưu lạc đến Phước Kiến ông cố chịu ơn cứu đói của một gia đình bản địa, nên tía tôi mới đặt cho tôi cái tên “Triệu Phước Kiến”, vừa tri ơn ân nhân vừa có ý chúc cho cuộc đời của tôi luôn gặp mọi điều phước lành.
Khắc Xương cau mày:
– Vậy ra chữ “Phước Kiến” này không phải chữ “Phước Kiến” kia.
– Phải. “Kiến” kia là “Kiến tạo”, “Thành lập”. Còn “Kiến” này là “Diện kiến”, “Gặp gỡ”.
Rồi ông Thầy Dòng mời xấp nhỏ giới thiệu đầy đủ tên tuổi và nguyên quán. Đêm qua mệt quá nên đầu óc vẩn vơ thành ra không nhớ tới chuyện này.
Đến lượt Henrico Thạnh, anh cười rộ lên khoe hàm răng trắng ỡn:
– Nguyễn Phước-Thạnh. Dạ, con hổng có dính dáng gì tới vua Gia Long hay mệnh quan trào Nguyễn nào hết; chẳng qua nguyên quán của con ở xã Phước Thạnh mà thôi.
Để tránh chiếc xe của Longiuns Kiến “Cuốn theo chiều gió”, các học trò của ông khuyên ông nên cất trong tịnh thất và khóa cửa kỹ càng. Do có bằng lái xe bốn bánh cỡ lớn nên ông Thầy trạc lục tuần tự lái luôn, mà không cần nhờ Phá Vân làm tài-xế chở đi giùm.
Đường xuống núi khó chạy vô cùng mà Longiuns Kiến lái làm sao mà cái xe êm ru và ít bị dằn xốc mạnh, nhờ vậy mà nguyên đám không bị gặp “cô Huệ”. Đến những nơi thờ tự của Đạo khác, Longiuns Kiến tắp vô làm vài pose ảnh và đi vài vòng thăm viếng; mặc cho xấp nhỏ léo nhéo phản đối. Cho nên mãi gần chín giờ sáng, đoàn người mới tới được lưng chừng núi. Thấy không còn cảnh lạ nào nữa, Longiuns Kiến quyết định chạy thẳng ra khu chợ gần đó luôn.
Để tỏ rõ nỗi lòng của xấp nhỏ, Longiuns Kiến mở bài “Kinh khổ” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng do Duy Khánh trình bày.
– Đúng là Thầy thuộc dạng cha nội chớ hổng phải Cha Dòng. – Henrico Thạnh bật cười nhận xét.
– Ờ, hồi xưa tao với thằng Dương quậy nát khu Mả Lạng với Ngã Năm Chuồng Chó, bị ông Hùng dí chạy gần chết. Giờ lớn rồi “Em hiền như Ma-Sơ”… Bây mà nói tao “Ma-Cô” là tao thả bây xuống đây liền.
– Rồi lát nữa ăn gì hả Thầy? – Y-Nhã Cường nhíu mày hỏi.
– Cơm tấm Long Xuyên. Ủa mà ở đây ram sườn chớ hổng có nướng hả? Tao thì tao khoái sườn nướng hơn.
Khắc Xương cười híp mắt:
– Dạ, ram mặn, ngon lắm đó Thầy.
– Thì biết ngon rồi nhưng mà tôi thích ăn sườn nướng hơn.
– Đi ăn hủ tíu xương, rồi xong, không có “Adam” với “Eva” gì nữa. – Y-Nhã Cường quyết định giùm luôn.
– Trước giờ tao nghe mấy huynh đệ của tao nói hỗn danh của bây là “Cha Cọp”, giờ tao tin rồi đó.
– Có cái ăn mà cũng lôi thôi, con ghét lắm Thầy.
Louis Quế lặng lẽ làm dấu Thánh.
– Số đất ở Giáo xứ St. Pio Năm Dấu bị thằng khứa kia lấy bán bao nhiêu hả Cường, Mỹ?
Ignacio Cường bấm đốt ngón tay, rồi ngửng mặt lên mà trả lời:
– Khoảng đâu chục công đất.
– Lạy Chúa tôi!
Louis Quế vừa lần chuỗi Mân Côi vừa nói:
– Cũng nhờ Cường dữ mà ông đó hổng nhượng được nguyên cuộc đất cho chánh quyền đó Cha. Xíu nữa là “rã xứ” rồi.
– Nói cụ thể được hôn?
– Lúc đầu, ông tham quan đó dụ rằng sẽ xây trường Cơ Đốc cho Giáo xứ, đặng tiện bề lấn đất từ từ. Cường nó nghi, nó mới lôi ổng ra Đài Đức Mẹ mà bắt thề độc rằng nếu làm trái lời đã hứa thì ba đời con cháu nhà ổng ngóc đầu không lên. Ổng sợ quá nên xách quần chạy luôn.
Longiuns Kiến phá lên cười sảng khoái. Nhưng sau đó, giọng của ông Thầy sắp ăn Lễ Đáo Tuế trầm xuống:
– Hèn chi mà mày bị chém xối xả…
Quán hủ tíu – mỳ mà Khắc Xương chọn là của một gia đình Cao Miên, vậy ra đây là tiệm Nam-Vang, coi bộ cũng đông khách lắm, phải đợi mười lăm phút mới đủ ghế cho Longiuns Kiến và xấp nhỏ ngồi.
Trong quán phát những bản nhạc thịnh hành của xứ chùa vàng, thành ra phần đông người Việt nghe không hiểu chi hết. Và cũng nhờ chủ quán lựa những bài hát có giai điệu êm tai và chỉnh âm lượng thật nhỏ nên thực khách không bị nhức đầu mà khó chịu.
– Ở đây có tô xe lửa không anh? – Khắc Xương hỏi trong lúc chà đũa với miếng chanh.
Con trai thứ của chủ quán tếu táo đáp:
– Có tô xe bò được không anh?
– Xe gì cũng được. Miễn bự hơn cái mặt mâm của tôi là được.
– Ủa anh tính quay Youtube hay gì mà kêu tô lớn dữ thần vậy?
– Dạ hông, tại sức ăn của tôi mạnh thôi.
– Lấy cái thau cho ổng đi. – Y-Nhã Cường chốt sổ.
– Dạ được. Sẵn nhà có cái tượng bự lắm, cũng ngang cái thau ngâm chân… Í!
Biết người trai đó lỡ lời nên ai nấy đều được phen cười đã đời, làm cậu ta mắc cỡ gần chết.
Khắc Xương bèn giúp chú em giải vây:
– Trong cái tủ kiếng có cái gì thì bỏ vô tô tôi cái đó.
– Vậy ăn mấy cục xương?
– Để riêng. Hai cục thôi.
Người trai đó ngần ngừ nhìn chàng cư sĩ Cao Đài mà thấp giọng hỏi:
– Ăn thiệt nghen “bòn”? Bữa trước tôi bị má chửi rát mặt vì để khách “trác” rồi.
– Sao?
– Nó tới quay Youtube, nó biểu tôi làm một tô… nhỏ hơn cái tượng của “bòn” một xíu, nó giới thiệu xong cái nó đi luôn, không ăn mà cũng hổng trả tiền luôn.
– Vậy ra “bòn” đi theo nó luôn?
– Ờ.
Ignacio Cường cười hỏi:
– Sao không chạy ra níu?
– Nó có đồng bọn nữa… Hình như là theo cái trò “Kêu xong bỏ chạy” đang thạnh hành trên cái mạng xã hội nào đó.
Louis Quế ngó Cha Cọp mà biểu:
– Đụng Cường chắc tụi nó hổng còn cái răng ăn cháo.
Longiuns Kiến đã đói bụng nên lên tiếng “Cắt đứt dây chuông”. Ông kêu một tô hủ tíu Nam Vang đặc biệt và không lấy xương, răng cỏ còn mạnh đâu mà cạp đồ cứng nổi.
Nhiều người chứng kiến Khắc Xương ăn cái tượng hủ tíu – mỳ thì lén ghi hình lại.
Longiuns Kiến không biết ông “Lý Nguyên Bá” này thời trẻ có chơi thể thao không mà vóc dáng cao lớn như đô vật vậy. Hồi ông còn trẻ, ông chưa từng ăn nhiều như cậu này.
Sẵn tánh ham vui, Longiuns Kiến theo lời khuyên của Khắc Xương mà đến thăm xe-hàng của thím Huê để mua ít bánh trái đem theo ăn trong lúc lên đường ghé đình Thoại Ngọc Hầu.
Gặp được đồng hương, hai người con xa xứ mừng mừng tủi tủi mà trò chuyện với nhau bằng thứ tiếng Quảng Đông thân yêu; chứ mỗi người nói một tiếng thì người kia làm sao theo kịp. Dù không hiểu họ đang nói gì, song những người Việt kia đều cảm nhận được chủ đề mà họ nhắc tới là về nguyên quán của tổ tiên – tông tộc đôi bên, cũng như lý do nào đã rời Đất Mẹ sang Đất Người.
Trước lúc chia tay, Longiuns Kiến vỗ vai thím Huê mà dặn:
– Tiểu muội, cuối năm làm cho nhà huynh bánh lá liễu nghen? Ở trển hổng có ai bán mà nhà huynh thích ăn hết.
Sáu Quới ghẹo:
– Ổng tính đóng “Đường Sơn đại huynh” hả?
Henrico Thạnh bịt miệng ông Sáu mà nhắc nhở rằng:
– Nói xốc ổng hồi ổng diễn “Đường gươm Nguyên Bá” bây giờ.
Theo như sự sắp xếp của xấp nhỏ, Louis Quế lên ngồi cùng băng với Longiuns Kiến; bên phải là Henrico Thạnh, Ignacio Cường và Stephen Đoàn, còn bên trái là Khắc Xương và JB Khải. Ngồi túm tụm gần nhau để dễ nói chuyện với nhau và ăn uống hơn.
– Bên Hẹ – Bên Tiều, không nói tiếng Quảng Đông sao hiểu nhau được?
Henrico Thạnh cười hỏi:
– Vậy chứ Thầy nói tiếng gì?
Biết tỏng thằng học trò xứ dừa bẹo mình nhưng Longiuns Kiến vẫn lặp lại:
– Khách Gia. Ẻm là Triều Châu rặt.
Nói đoạn, Longiuns Kiến mời xấp nhỏ ăn thử mấy món bánh trái Triều Châu. Về phần mình, ông lấy một cái bánh quẩy xoắn rắc đường.
Sáu Quới hỏi:
– Thầy rõ ràng biết Đức Cha thiên vị cho Cha Joseph Thành vậy mà không chịu lên tiếng.
– Ai tin tôi?
Ignacio Cường nhướng mày:
– Có thể là thằng khứa đó muốn lấy chức Giám Mục để làm đẹp lòng Thầy. Nhưng thấy Thầy không chịu thỏa hiệp theo nên mới phao tin Thầy có vợ con ở Châu Đốc để “dứt” Thầy.
Longiuns Kiến vỗ đùi cái đét:
– Phải ha! Chớ tao nghĩ tao đâu có tài đức gì mà được đồng lòng đề cử dữ vậy.
JB Khải trệu trạo nhai hoành thánh chiên.
– Hèn chi mà ổng sượng còn hơn khoai mì sượng. Giờ tao hiểu nguyên nhân rồi đó.
Đến đình Thoại Ngọc Hầu, nguyên đoàn vô thắp cho vị Trấn Thủ trấn Vĩnh Thanh những nén nhang lòng. Quang cảnh im ắng lạ lùng, không biết bữa nay nhằm ngày trong tuần hay sao mà ngoài họ ra, chỉ có lác lác mấy mống du khách ngoại quốc viếng đình. Những công thần khai quốc năm xưa, đã từng bôn tẩu theo roi ngựa của Chúa Tiên – Nguyễn Hoàng và đường phục quốc của Vua Gia Long – Nguyễn Phước Ánh, nay sao con cháu thờ ơ nhường vậy? Càng chứng kiến sự quạnh hiu của ngôi cổ tự, đáy hồn của những người trai càng nặng trĩu u sầu; rồi không ai bảo ai, người nào người nấy đều lặng thinh trở ra xe để thẳng tiến về Lăng Ông Thoại.
– Lát nữa ghé kinh Vĩnh Tế… – Longiuns Kiến ngỏ ý.
Xấp nhỏ đồng ý ngay tức khắc.
Về phần bà Ái Liên, Kiều Xuân và Quế Trân, ba người rủ nhau đi theo đoàn du khách của một hướng dẫn viên gốc gác ở đây. Nhưng vì một bà tánh ưa ghen chồng nên họ thôi ý định đi chung mà xuống đi taxi; chỗ mà họ đứng đợi là ở gần khu vực Ngọa Long Sơn.
Nghe bà Ái Liên kể lại căn cớ nào mà họ phải đứng dưới chân núi đợi xe, người tài-xế ngó Kiều Xuân mà lắc đầu cười:
– Cô này đẹp vậy hỏi sao bà kia hổng ghen cho được. Vợ tôi mà biết tôi chở cô này thể nào cũng ghen bóng ghen gió cho mà coi.
Kiều Xuân nghe khen mà không lấy gì làm vui.
Bà Ái Liên biết Kiều Xuân đang nghĩ về ai nên tìm cách đánh lạc hướng con nhỏ lụy tình:
– Cũng trưa rồi, đưa tụi tôi tới quán nào ăn cơm đi.
Vậy là người tài-xế giới thiệu cho ba khách nữ tiệm ăn của gia đình người Hoa trong thành phố Long Xuyên. Cách đây khá xa, nhưng ba khách nữ vẫn chấp nhận lời gợi ý của anh ta.
– Vô ngồi ăn luôn đi cậu. – Bà Ái Liên gọi với theo.
– Dạ, chị mời là tôi vô liền hà.
Kiều Xuân và Quế Trân chọn chung món ruột heo phá-lấu ăn với cải chua, gà nướng ngũ vị và canh sườn thập cẩm, ăn kèm với cơm trắng và cải ngọt luộc. Bà Ái Liên gọi một dĩa mỳ xào thập cẩm ăn thêm với cua lột bọc cốm và lòng gà – trứng gà non đốt rượu Mai-Quế-Hoa. Riêng người tài-xế thì kêu một dĩa cơm chả cá nướng, một dĩa hàu chiên hột gà và một phần canh y hệt như hai người đẹp xứ dừa.
Thím Huê bấy giờ mới tới. Thím đi quá giang xe lam của một đoàn khách đi viếng Đức Huỳnh Giáo Chủ một đoạn, đoạn còn lại thì đi xích-lô máy đến đây.
– Huê, lại quầy lấy thực đơn rồi kêu món luôn đi.
Thường ngày ăn và bán món Hoa nên thím Huê hơi ngán mấy món cố hương, nhưng vì muốn học thêm công thức chế biến nên thím gọi một dĩa gà Quảng Đông, cơm lòng gà và trứng gà non nấu theo kiểu Hải Nam, canh cá nấu rục xương hơi hám Hương Cảng và đậu hũ Đài Loan.
– Canh cá nấu đúng cách không bị bám mùi tanh, uống vừa thanh lại vừa ngọt, nên dẫu ăn kèm với thịt gà cũng sẽ không gây khó chịu.
Nghe thím Huê chia sẻ như vậy, bà Ái Liên dặn:
– Lỡ mà uống… thì cứ kêu canh khác. Đừng có ép mình nghe hôn? Có bữa ăn thì phải chọn sao cho ngon miệng chớ.
Uống đâu được một muỗng canh, thím Huê lắc đầu nguầy nguậy rồi gọi nhân viên lại mà đặt tô canh sườn nấu với cải xá-bấu.
Vô tình người đầu bếp ban nãy ra ngoài hút thuốc lúc trở vào có nghe thấy lời bình phẩm của thím Huê nên bước lại mà hỏi về vị của tô canh cá.
– Chú có rửa cá với rượu gạo không? Chú coi chừng rượu dỏm nên nó không khử được mùi tanh của cá đó. Thêm nữa chú nêm hơi ngọt, cái canh này nó cần làn lạt, uống như nước súp khai vị chứ đừng biến nó thành chè.
Sắc mặt ông đầu bếp phừng phừng lửa giận. Ông nói bằng thứ tiếng Việt lơ lớ:
– Vậy là ngộ bị chơi rồi nị à. Ngộ đâu có tự mua nguyên liệu, ngộ để vợ chồng con gái chủ tiệm mua không đó chớ, chắc tụi nó ăn chặn ăn bớt rồi nên tiệm này mới càng lúc càng vắng như dzầy. Thôi, tô canh cá này ngộ tặng cho nị đó, để cảm ơn ngộ đã giúp nị nhận ra vụ này…
– Chú đây gốc ở đâu? Em là Tiều nè.
– Hây-da… Vậy là đồng hương rồi, ngộ là Tiều – Bạc Liêu, nị cũng ở khóm dưới hả?
– Dạ. Sau này vì sanh kế mà em dọn lên Gia Định bán hàng rong.
– Tội nghiệp dữ hôn! Chắc giờ này a muội có chồng – con đề huề rồi hả?
– Dạ không, người em yêu bỏ em đi vượt biển rồi cưới vợ ở bển luôn. Em tưởng người ta còn thương mình nên đợi hoài – đợi hủy, rồi mấy mươi năm sau người ta dẫn gia đình về thăm em…
Ông đầu bếp thở dài. Đoạn biểu:
– Gia đình của huynh cũng người mất – người còn, muội à. Vượt biên chết không biết bao nhiêu người. Huynh cũng sang được tới Mỹ, sau bao nhiêu năm sống ở xứ cờ hoa huynh trở về đây tìm lại thân nhân để đưa tụi nó qua bên bển hết, giờ mới đưa được có hai gia đình hà.
– Ủa mà chú ở đây thì lấy ai bảo trợ tài chánh để đưa họ qua bển?
– Con cái của huynh. Vợ – chồng huynh thôi nhau rồi. Vợ huynh hồi còn cơ hàn nó làm bồi trong sòng bài Las Vegas, hổng biết Cao Xanh sắp đặt sao mà nó được ông Mỹ trắng giàu có thương nó, nên nó dìa nó bỏ cha – con huynh mà đi bước nữa với ông kia.
Bà Ái Liên vuột miệng hỏi:
– Còn huynh đây làm nghề gì lúc đó?
– Đầu bếp trong cái sòng bài đó luôn á, a chế.
Thím Huê quàng tay ôm vai bà bạn mà khoe:
– Chị này cũng là Hoa mà Hoa – Minh Hương.
Ông đầu bếp mừng rơn đến nỗi quýnh lên hỏi bà Ái Liên về chuyện tổ tiên bà là ai và đi tàu nào sang đây, có giống với bên ổng không.
Bà Ái Liên mới trả lời được non phân nửa, chủ quán đã ra gọi ông đầu bếp xuống nấu nướng.
Sẵn đang bực vì bị “trác” nên ông Tiều chửi người cùng hùn vốn mở tiệm một chập. Dẫu biết con mình sai lè nhưng vì thương con nên ông ta ráng nở nụ cười cầu hòa và nói vài câu xuôi xị với ông bạn đồng hương.
Bữa cơm trưa ấy vui họ tưởng. Người tài-xế đi nhiều – thấy nhiều nên kho tàng truyện kể dọc đường của anh ta vô cùng lớn. Nhờ có anh ta bốn khách nữ ăn cơm ngon miệng và thoải mái hơn.
Chừng nhân viên đem hóa đơn ra bàn, hai người đàn bà gốc Hoa chưng hửng biểu nhân viên gọi ông đầu bếp lên để mà quở trách.
Hiểu hai muội trách mình vì chuyện gì, ông đầu bếp xoa tay và cười xòa:
– Huynh lấy nửa giá thôi, hai muội.
Bà Ái Liên cự:
– Bán đã không có khách mà bớt bớt cái gì. Lấy đúng giá cho muội.
Nói đoạn, ba người đồng hương xin phép lại quầy tính tiền mà “Ôn cố tri tân” với nhau.
Người tài-xế vừa che miệng xỉa răng vừa nói với hai người đẹp:
– Người Hoa có một cái rất đáng để người Việt phải học: Đó là sự đùm bọc lẫn nhau.
Một ngày quay qua quay lại đã không còn nữa, bóng đêm lại tìm về chốn Phụng Hoàng Sơn. Vì sợ những cơn mưa thất thường nên không ai dám cắm trại trên đây, nhờ vậy mà Tăng đoàn được một ngày không nghe những tiếng hú hét quá khích, tiếng đàn hát ầm ĩ và tiếng chí chóe cãi nhau của các nhóm bạn.
Sau khi ăn tối no căng với món bánh ướt và gỏi cuốn, nhóm anh em Công Giáo cùng Longiuns Kiến tới hẻm núi ấy để tranh luận về hai bên Đạo.
Hẻm núi vẫn trầm mặc như mọi bữa. Nhưng nay có thêm sự xuất hiện của bầy gà lôi có bộ vó dữ tợn và đỏng đảnh, nghe đâu có vài du khách quấy rầy đến những con sóc nhỏ nên Hoàng Kỳ đã đưa bầy gà lôi tới đây làm lính gác rừng.
– Ôi, ký ức bị ngỗng rượt lại sống dậy trong trái tim tao…
– Lành thay!
– Lành con khỉ chứ lành… Ủa? Tiếng của ai mà nghe lạ hoắc vậy?
Hoàng Kỳ và nhóm học trò của Longiuns Kiến cười quá xá cười.
– Í mèn đét ơi! Ở đâu ra người Phi Châu dzậy?
Hoàng Kỳ chắp tay mà thưa rằng;
– Thưa ông, tôi là Tăng sĩ ở đây, pháp hiệu là Hoàng Kỳ, tên tiếng Anh là Raymond hay còn gọi là “Ray”. Rất hân hạnh được đón tiếp ông và các vị khác.
Vừa ra hiệu trấn an bầy gà lôi, Hoàng Kỳ vừa mời nhóm tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế vô rừng chơi.
Điểm dừng chân lần này là một “thung lũng” có đồng cỏ cao quá ống quyển. Đây là một vùng trũng hơi thấp so với phần đất liền kề, vì chỉ thấp hơn có nửa mét nên leo xuống và leo lên rất dễ dàng, nhưng cũng bởi tự nhiên có cái trũng như vậy nên nhiều người bị hụt chân té hoài – cũng may chưa có ai mất mạng hay mang thương tật suốt đời.
Thủy Diệu dựng cái thang tre có thể gấp lại được làm cầu nối hai bờ trên – dưới. Longiuns Kiến phải vịn thang bước xuống vì xương khớp rệu rã hết rồi; còn Ignacio Cường thì do cái chân chưa lành nên không thể nhảy xuống như các bạn.
– Oa, ở đây có hang động bí mật hả bây?
Phú Lâm gật đầu:
– Cái hang này có thể dẫn tới Hồ Soài So.
– Xa dữ há?
Để giúp ông Thầy luống tuổi tránh khỏi bị cảm lạnh do ngồi dưới đất, nhóm anh em Công Giáo đã đem theo sẵn tấm bạt bằng mủ rất dày mà trải cho ổng ngồi.
JB Khải mở đầu:
– Tôi vẫn chưa hiểu về “53. Khi chết Ngũ Uẩn diệt theo”?
Thanh Liên trả lời:
– Đây là thí dụ của tôi: Tuy rằng những gì của kiếp trước đều bị xóa sạch, nhưng chỉ cần một tác động là sẽ nó sống lại, nói cụ thể như kiếp trước anh ghét tôi – kiếp này hai ta gặp lại, mặc dầu hai bên chẳng còn quen biết nhau nữa nhưng tự nhiên trong hành thức của anh khởi lên ác ý của tôi, khi ấy Ngũ Uẩn đã quay lại và đó là lúc Kết Sanh Thức diễn ra.
Y-Nhã Cường hỏi:
– Anh thấy “Kinh Mi – Tiên vấn đáp” sao hả Liên?
– Có rất nhiều điều trong “Kinh Mi – Tiên vấn đáp” nên đưa ra một luận thuyết khác mới đúng với thực trạng Phật Giáo ngày nay.
Y-Nhã Cường lại hỏi:
– Ở điểm nào?
– “152. Cư sĩ phá giới và Sa-môn phá giới, hậu quả tội lỗi nặng nhẹ ra sao? “Điều thứ Năm, thứ Bảy, thứ Chín và thứ Mười đâu còn thấy ở những Sa-môn phá giới nữa. Hay nói ngắn gọn là Ma Tăng.
– Anh có ai làm nhân chứng không?
– Cô gái mà bữa hổm tôi kể anh nghe đó. Bạn của ba cổ giờ còn dám mạnh miệng nói, “Trên đời này không có Thần Phật gì hết, chỉ toàn là do con người tưởng tượng ra.” Kế nữa là hành vi rất bỗ bã, hàm hồ và sang sảng như phường du đãng. Vì theo Bắc Tông nên trước mặt Tăng chúng thì trai tịnh, sau lưng lại nhậu nhẹt linh đình đủ kiểu.
Henrico Thạnh thắc mắc:
– Nhưng mà anh dám phản biện lại bộ kinh này luôn sao?
– Tại sao không? “Kinh Kalama” đã nói rất rõ lý do tại sao tụi tôi không nên tin hùa hay tin vội rồi mà.
JB Khải hỏi:
– Vậy mấy anh tu Phật ra sao đâu?
Trì Thương trả lời:
– Tụi tôi chỉ tin Tạng Kinh, giữ giới theo Tạng Luật và tham khảo nội dung Tạng Luận mà thôi.
Châu Lợi nêu quan điểm của mình:
– Bản thân “Kinh Mi – Tiên vấn đáp” không được nhiều nhánh Phật Giáo coi là Tạng Luận, chứ đừng nói chi là Tạng Kinh.
JB Khải ngạc nhiên tới nỗi hai mắt mở thật lớn:
– Nhưng, những gì viết trong Kinh này sẽ giúp bên anh thắng được ngoại Đạo mà?
Đoạn Trần lắc đầu:
– Hùng biện là để bảo vệ Giáo Pháp của Đấng Thế Tôn và danh dự của Tam Bảo: Phật – Pháp – Tăng. Không phải là để tranh hơn thua hay giành thắng lợi với Đạo nào hết. Về phần ý nghĩa của quyển Kinh này, là nhằm giúp làm sáng tỏ Giáo Pháp và ngăn ngừa Thường kiến ở chúng Phật Tử mà thôi.
JB Khải lại tiếp:
– Nhưng trong bản Kinh này có nhiều lần ông Na-Tiên đã nhắc tới ngoại Đạo với lời lẽ khinh khỉnh mà?
Trì Thương trả lời:
– Đó là cách nói khoa trương nhằm nhấn mạnh lập luận sai lầm của ngoại Đạo, giống như bên anh nói “Người giàu vô được Nước Trời khó như con lạc đà chui qua lỗ kim”.
JB Khải cười nhếch miệng:
– Tôi vẫn chưa phục.
Chân Tâm bật cười:
– Thì kệ anh chứ.
JB Khải hỏi cắc cớ:
– Vậy ông Na-Tiên có phạm Vọng Ngữ không?
– Không. – Châu Lợi đáp.
– Dựa vào đâu?
– Dựa vào cách diễn giải của Đấng Thế Tôn.
– Bằng chứng?
– “Trung Bộ – Majihima nikàya” số 58: Kinh Abhaya – Ràjakumàra. Những gì dựa trên Sự Thật và có ích cho người nghe thì không đáng bị gọi là Vọng Ngữ, ấy là theo góc nhìn của tôi sau khi đọc xong phần Kinh này.
Longiuns Kiến để ý thấy bên mình không giữ được sự bình tĩnh khi tranh luận, còn bên kia dầu nói đúng – nói sai hay đầy dẫy lỗi ngụy biện thì vẫn giữ được sự điềm tĩnh và lời nói rất nhẹ nhàng. Ông muốn thay mặt các trò biện luận, nhưng không làm được vì phần Kinh mà hai bên đang nhắc tới ông chưa có đọc một trang.
– Mấy Thầy đây nghĩ sao về phong thủy?
Châu Lợi trả lời:
– Có một điều rất ngộ mà tôi để ý thấy hơn nửa đời người là những ai xây tư dinh của mình hay thủ phủ của vương triều ở trên núi, thường không sớm thì muộn sự nghiệp cũng tiêu vong và vương triều cũng mất hay suy yếu.
Longiuns Kiến chưng hửng hỏi:
– Tại sao vậy cậu?
Y-Nhã Cường nhắc nhở:
– Ông Châu lớn hơn Thầy đó Thầy, ít nhứt cũng năm tuổi…
– Gì? Cái mặt trẻ như tụi bây mà lớn hơn tao hả?
– Phải, tôi năm nay đã thất tuần rồi. Nếu ông không tin, lát về tịnh thất tôi cho coi thẻ căn cước và giấy khai sanh.
– Rồi, trở lại với chủ đề ban nãy đi… anh.
– Theo tôi nghĩ, núi non là nơi linh thiêng và thích hợp cho nơi thờ tự và vùng đất của muôn thú hơn là loài người, thành thử khi bị vấy bẩn bởi Tạp Niệm thì người sống trên đó sẽ bị phương hại nặng nề…
– Nhưng nhiều quốc gia dựa vào núi mà sống đó?
– Tôi chưa có nói hết. Núi non đi cặp với đồng bằng như địa hình ở đây, chứ không phải là một vùng toàn núi non như Tây Tạng hay Do Thái; tức là thiên nhiên đã khoản đãi con người một đồng bằng rồi mà còn biến núi non thành nơi ăn chốn ở nữa.
– Vậy ra sự trừng phạt đó khởi nguồn vì lòng tham vô đáy của con người?
Châu Lợi lắc đầu:
– Tôi không biết. Chỉ thấy sao thì nói vậy thôi chớ không biết căn – cớ thâm sâu.
Longiuns Kiến nhớ đến những tòa lâu đài và tư dinh bỏ hoang trên những quốc gia còn hoặc không chế độ quân chủ, và nhận thấy những gì Châu Lợi nói hoàn toàn đúng. Những nơi thờ tự hay Thánh Tích ít bị hủy hoại hơn, mặc dầu nhiều chỗ được dựng trên nền móng vô cùng yếu ớt hoặc bị bom – đạn nã xuống và pháo kích liên miên.
Louis Quế giỡn:
– Hóa ra núi non cũng cần sự riêng tư.
Hai bên cười lên cái ồ. Bên Phật cười theo cái hiểu đơn thuần, còn bên Chúa hiểu theo cái nghĩa châm chọc một vụ việc trong giới giải trí.
Rồi đó, bên Chúa bắt đầu nêu những điển tích bổn Đạo và mời bên Phật biện luận. Hai bên tranh luận sôi nổi tới độ làm chim rừng phải thức giấc và bầy sóc nhỏ tỉnh cả ngủ mà lăng xăng chạy xuống dòm. Những con gà lôi thỉnh thoảng lại xòe đuôi như tán thưởng ý kiến của ai đó.
– Có ai khát nước không? – Duy Hảo hỏi.
Vậy là chàng Sa-di chưa chớm hai mươi mau chóng trở về động mà khiêng ra một thùng nước, Henrico Thạnh cũng lót tót chạy theo xách phụ.
– Đây là nước gì vậy? – Longiuns Kiến kề mũi ngửi thì thấy mùi rất thơm.
– Si-rô Sala. – Thanh Liên vừa nói vừa sửa y trước khi an tọa. – Nhưng kỳ thực nó là “Trái mây”.
Những người mới nếm thử khen ngon hết lời. Đá bào mát lạnh, si-rô ngọt dịu, có thêm nước cốt hạnh chua chua và chút sữa đặc beo béo nên uống vào rất ngon và đã khát.
Thanh Liên giới thiệu bài thuốc từ cây Sala:
– Nhựa cây Tha La có thể làm lành vết thương hở và sát trùng vết thương rất hiệu quả. Thành thử đi đâu tụi tôi cũng xách theo một keo nhựa-Sala.
JB Khải hỏi:
– Vậy sao hôm trước hổng đưa tụi tôi xài liền?
– Lỡ đâu mấy anh bị dị ứng thì sao? – Phá Vân bật cười mà hỏi.
Longiuns Kiến đưa cái tay bị quẹt một đường rươm rướm đỏ mà biểu Châu Lợi xức thử cho mình. Châu Lợi thuận theo người em ngoại Đạo, ông mở tay nải và lấy tăm bông mà quẹt vô hũ keo một chút xíu, rồi thoa lên vết trầy của cậu ta.
– Ui…
– Hơi rát.
– Ừ, hơi rát, nhưng tê liền sau đó. Vết xước bớt rân-rân rồi. Cảm ơn nghe?
Châu Lợi khẽ nói, “Sadhu”.
Sau buổi trò chuyện, nhóm tu sĩ Công Giáo và cư sĩ Cao Đài trở về lán trại ăn lót dạ trước khi đi ngủ.
Vừa ăn bánh tráng trộn và gỏi đu đủ khô bò, mọi người cùng coi “The Death of Stalin” – Một bộ phim châm biếm chính trị khá vui. Nhờ có cái máy chiếu mà nguyên nhóm không cần phải châu đầu vào màn hình Laptop. Và cũng vì ai nấy đều giỏi tiếng Anh nên không cần phải mở phụ đề hay mất công tìm bản dịch.
oOo
Vì ông ghệ gởi kem đánh răng “Sensodyne” nhiều quá nên mợ Hai phải gọi điện sang hỏi coi mình nên xài loại nào trước. Bán hết hai sọt bánh mì, mới thấy ổng hồi âm.
– Nè, nghe tui dặn: Nếu bà và mấy đứa kia răng yếu thì không nên xài loại “Protect and Repair”, vì có đứa nhân viên của tui đi trám răng sao đó mà súc miệng với loại này đau như bị chế a-xít đậm đặc vậy.
– Ghê vậy hả ông?
– Ờ, loại này những ai mà có răng dễ mẫn cảm hay đang trám thì theo tui đừng nên xài, mà nên xài loại “Nourish”, “Rapid”, “ProNamel” hoặc các loại thông thường khác. Xài hổng được loại “P – R” thì bỏ nghen hôn? Chớ đừng có tiếc mà ráng xài.
– Ổng cũng chu đáo ghê, mua quá trời loại khác nhau, chắc tốn dữ lắm hả ông?
– Tính luôn thuế thì chưa tới chín đồng đâu. Nói gần chính xác là hơn tám đồng xíu hà. Có chỗ đang giảm giá thì bán có bảy đồng mấy hoặc thấp-hơn nữa.
– Mỗi chỗ bán mỗi giá khác nhau hay sao mà ông nói tùm lum vậy?
– Ờ, mỗi chỗ mỗi khác. Nhưng chỗ bán rẻ nhứt thì mặt hàng không phong phú như chỗ bán mắc nhứt.
– Vậy tính ra trăm cây chưa được một ngàn Mỹ kim.
Thấy quán vắng khách nên mợ Hai xuống bếp bưng lên tô bún riêu mà vừa ăn vừa tán gẫu với ông ghệ. Độ rày quán đã khá hơn mấy tháng trước, nhưng vẫn phải nhờ vốn của ông ghệ mới có dư để lời, thành thử dù có thêm khách bà cũng chẳng lấy làm mừng.
– Mua trái phiếu bao nhiêu thì được Mỹ cấp thẻ xanh hả ông?
– Để tui về hỏi luật sư của tui cái đã. Không biết nói tầm bậy vừa uổng tiền vừa tổ trác nữa.
Mợ Hai hỏi lảng sang chuyện khác:
– Con Lan nó nhờ tui dặn ông mua giùm nó chục hộp “Triple Leaf Tea – Detox”. Nó uống trà chanh mật ong đâu được nửa tháng mà giảm mỡ toàn thân rồi. Tui cũng bắt chước nó uống thử, mới có mấy bữa nên chưa thấy kết quả gì.
– Hay vậy sao bà?
Mợ Hai gật đầu.
– Ở bên đây, nhỏ nhân viên của tôi thường mua mật ong ở “HMart”, mật ong trong chợ này có một phần lấy từ nguồn ong Việt Nam, giá phải chăng và phẩm chất cao lắm.
– Nhiêu mà ông kêu phải chăng?
– Chưa tới mười đồng nữa bà. Được 2 LSB, khoảng đâu 907 gram.
– Dữ hôn! Vậy té ra bên đây còn bán mắc hơn bên bển. Mà “Hắc-Mạt” là của ai?
– Chợ Đại Hàn đó bà. Tui hay đổ ở cây xăng “Mobil” bên kia đường lắm, không hiểu sao đổ ở đây xe chạy êm và mát máy hơn những chỗ khác.
Ngó con ghệ già ngồi ăn bún riêu mà ông thương gia thèm chảy nước miếng, hồi về bển thì hổng có thèm, qua đây dòm miệng một đỗi lại muốn xách xe đi mua, nhưng ngặt nỗi ở đây không có bán bún riêu vừa ý ông. Chắc lát ông sẽ kêu đầu bếp mua đồ về nấu. Hai thằng kia chịu không nổi mùi mắm thì ra ngoài đường ăn.
– Công thức sao bà?
– Hai gói trà, một trái chanh bự và không tới một muỗng cà-phê mật ong nguyên chất. Để dễ uống hơn, nên uống kèm với đá lạnh.
– Trời đất ơi, chua lè sao uống nổi bà?
– Uống vậy nó mới đốt mỡ lẹ. Chớ pha cho ngon hay vừa uống chỉ tổ mập ra chớ hổng có ốm đi được miếng nào đâu.
– Thôi, tha cho cái bao tử của tui đi bà ơi.
– Ờ, cái này ai mà yếu bao tử thì đừng nên theo, lủng bao tử có ngày chớ hổng giỡn chơi đâu. Với lại huyết áp thấp và hay bị nhức đầu cũng đừng nên uống luôn.
– Uống vô giảm cân lẹ hay chết lẹ vậy?
Mợ Hai nguýt háy một cái:
– Tui nói cho ông nghe thôi chớ người ngoài sức mấy tui chỉ. Mắc công có gì họ đổ thừa tui lắm.
Vệ Thu chịu hết nổi nên chạy xuống dặn đầu bếp tối nay nấu bún riêu, còn hai cậu chủ ăn không được thì kệ xác tụi nó, lớn rồi đói thì tự giác ra ngoài ăn. Bà bếp người Việt cũng đang thèm bún riêu, nghe vậy liền mừng húm, lát nữa thể nào bà cũng xin ông chủ đem một nồi bún riêu nho nhỏ về cho gia đình bà; ổng chủ thảo ăn, hào phóng và rộng lượng nên người làm trong nhà thương quý ổng lắm, riết rồi chủ – tớ, tuy có rất nhiều người thuộc quốc gia khác, mà đối xử với nhau như bà con ruột thịt.
– Ở bên hiện thời đang thạnh hành xe nào vậy ông?
– Bên đây chạy xe “Tesla” đầy. Chỗ nào cũng thấy nó hết. Màu sắc đủ luôn.
– Trời, hồi xưa mà mua cổ phiếu của cậu đó giờ ngon rồi ông há?
– Ngon gì bà? Cũng run lắm chớ.
– Khỉ họ… Đưa tui mớ cổ phiếu đây rồi tui run giùm cho.
– Gái đừng có làm “Gái già lắm chiêu”, gái.
– Ủa mà chiếc xe kia có thấy hôn?
– Có. Đúng một lần trên đường Bolsa. Rồi thôi. Từ đó tới nay không thấy lại nữa.
– Xe gì mà giống sao chổi quá vậy ông? Xẹt qua một lần rồi mất hút.
– Chiếc “Daewoo” cũng y chang vậy. Tui hổng hiểu sao cái hãng đó duy trì dòng xe này nổi nữa.
– Mà ông đang uống gì dợ?
– Nước xá-xị hiệu “Barg’s” của hãng “Coca Cola”, mùi vị tương tợ nước xá-xị bày bán ở miền Nam trước năm 75 luôn. Nghe đâu cái hiệu “Barg’s” này là người điều chế ra nước xá-xị đầu tiên, thiệt – giả hay chiêu trò quảng cáo thì không biết, chỉ biết nước xá-xị này uống thấy ngon hơn mấy hiệu khác.
Nói thêm được vài câu nữa, có điện thoại của đối tác bên Áo Môn – Macau gọi qua nên Vệ Thu phải gác máy mà đi bàn chuyện làm ăn với đối tác.
Sáng nay mợ Hai đi chợ có nghe mấy bà bạn hàng kháo nhau về chuyện kho hàng của nhà họ Lê bị ai đó phóng hỏa. Nghe phong thanh là con trai trưởng nhà đó bán ma túy nên sau khi phi tang hết hàng thì đã thuê người châm lửa đốt để “hủy thi diệt tích”. Bây giờ nhà đó đang bị ghét nên ai cũng làm nhà văn sáng tác truyện về họ được hết, thành ra bà lại nghe cho biết với người ta chứ không hề tin xíu nào.
Chú Thương đang lấy “viết” mà bắt bông cho cái bánh kem sầu riêng mà khách dặn tối nay lấy. Cũng may Trời tội nghiệp cho cái đầu đậu hũ của chú mà phú cho chú sự khéo tay thiên bẩm, chỉ cần đọc qua công thức và nhìn người ta trang trí một lần là chú bắt chước được liền, thành thử hai má – con chú không bị mất tiền và thời gian cho chú đi học nghề.
– Huy, lên đây thăm tao hả?
Trần Hoàng Huy cười rộ lên thật tươi, rồi chỉ xuống cái giỏ đệm có mùi tanh tanh như thịt sống mà nói:
– Ông chủ vườn thưởng cho tao hai con gà. Ăn ở dưới một mình buồn quá nên xách xe chạy lên đây thăm mợ Hai và mày rồi sẵn nhậu luôn.
– Vậy bọc cho kín rồi cất tủ lạnh giùm tao đi. Lát tao nấu cà-ri cho mà ăn.
Hoàng Huy chỉ vô thau bột mà hỏi:
– Cho tao nặn bánh mì được hôn?
Kim Thương cười méo xẹo:
– Con lạy ba.
Hoàng Huy xuống nước năn nỉ:
– Đi mà…
– Rồi, lát tao ngắt cho một cục tha hồ mà nhồi với nặn.
Vừa tỉ mỉ bắt bông kem, Kim Thương vừa chép miệng nhận xét:
– Đáng ra mày phải đi làm thợ điêu khắc mới đúng.
– Mày đeo bịt mặt suốt không thấy ngợp hả?
– Đồ ăn mà văng nước miếng tùm lum, mày dám ăn hôn?
– Hông.
– Mình lấy tiền của người ta thì phải làm sao cho xứng đáng nhứt.
Cũng may Hoàng Huy cũng khéo nên cục bột ra hình mấy vật gần giống bánh mì. Sợ bấm lộn làm nổ luôn cái lò nướng, chàng giang hồ điển trai yên phận thủ thừa mà để cho thằng bạn ra tay.
– Gì dzậy má?
Kim Thương ngồi bệt dưới đất mà gập bụng cười rũ rượi. Rồi trong tiếng nấc nghẹn, anh nói:
– Mày… mày… nặn cái giống gì vậy?
Hoàng Huy sẵn chân đá nhẹ vô đầu gối thằng bạn mà nạt:
– Thôi đi mày! Bỏ lò giùm tao kìa.
Kim Thương vịn bàn đứng dậy, cái miệng của chàng vẫn ngoạc tới mang tai, chừng nín cười được rồi chàng ta mới dặn thằng bạn:
– Mày đứng canh nghe? Má tao tưởng bánh hư là mẻ bánh của mày vô sọt rác an nghỉ đó.
– Rồi, biết rồi.
Sau khi rửa tay với xà-bông và hong khô bằng máy sấy khử trùng, Kim Thương mới đem cất ổ bánh kem vào tủ lạnh chuyên dành đựng bánh.
Hoàng Huy chợt nói:
– Sao tao nghi có đứa chơi tiểu lòn tao quá.
– Ai? – Bỗng dưng, Kim Thương la lên. – Hổng phải thằng Ba Beo nghen. Thằng đó coi dzậy chớ chơi được lắm á.
– Chứ trên đất Đồng Nai có nhiêu đứa để mà tao nghi nữa đâu?
oOo
Quán cà-phê nằm gần cổng Giáo xứ vẫn đông khách như mọi ngày. Thím bán xôi hãy còn ế hơn nửa gánh nên ráng nán lại bán thêm một chút; thằng con của thím đã xin được một chân văn phòng nên không ra đây phụ với thím nữa.
Bữa nay là thứ Bảy, sáng mai chắc “Tứ đại danh bổ” lại về tổ chức Thánh Lễ thay cho Hứa Văn Cường và Đinh Lụy.
– Ủa Cha Dương? – Thím bán xôi vừa hỏi vừa mở nắp vung. – Ăn xôi hôn Cha? Tôi đãi.
– Mua giùm thì được, chứ mời thì tôi không nhận đâu chị.
Thím bán xôi cười xòa, rồi niềm nở hỏi cách ăn của Cha Dương ra sao để thím biết đường mà bỏ.
Ông chủ quán nghiêng mình chào hỏi Cha Dương:
– Cha tới đây có việc chi hôn Cha?
Augustino Dương đưa tấm bích-chương cho ông chủ quán rồi dặn ông ta dán lên chỗ nào dễ thấy nhứt của quán.
– Tối nay chiếu phim Đạo hả Cha?
– Dạ, ở hội trường, nhớ nhe anh?
– Dạ, để tôi ráng tới coi.
Nói đoạn, ông chủ quán mở bài “Tình nồng Quê Hương” của nhạc sĩ Mạnh Quỳnh do song ca Chế Linh – Giáng Thu trình bày.
– Xin lỗi chứ Giáo dân ở đây chưa từng ngán thằng cha nào.
Tiếng nói sang sảng của một người đàn ông mặt chữ Điền đã làm quán nhỏ nhốn nháo. Nghe đâu ở đây sắp có người quản xứ mới, nhưng sau khi thấy Giáo dân ở đây dữ quá nên co giò chạy hết ráo rồi.
– Tui chịu cậu Mỹ hà! Vô xưng tội nói nghe thấy cưng hết sức.
Ông già mặc pyjama trề môi nói:
– Bởi vậy cho nên nó mới có ghệ.
Bà già bận đồ bà ba nhéo đùi ông chồng đã lẽo đẽo theo mình cả đời:
– Ghệ đâu mà ghệ. Hổng thấy hai đứa đâu có xà-nẹo, xà-nẹo với nhau gì sao?
– Đợi hai đứa nó xà-nẹo mới chịu tin hả?
Người trai có mái tóc bồng bềnh vừa lau cây đàn guitar vừa nhỏ nhẹ trình bày:
– Đó là rung động đầu đời thôi mà ông.
Ông già mặc pyjama cự:
– Rồi chừng nào hai đứa nó có con là “rúng động” há?
Augustino Dương ngồi ăn xôi mà như nuốt than hồng xuống cổ. Dầu đã “Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi” mà oai danh của thằng Cường vẫn còn danh chấn thiên hạ, nãy giờ hổng ai dám nói động tới nó một câu. Đúng là cái Giáo xứ này cần có thằng Cường để “bảo quốc an dân”.
…
Y hẹn, đúng bảy giờ rưỡi, những ai trong Đạo kéo tới hội trường coi phim. Một vài người Lương ham vui và hiếu kỳ cũng lại góp mặt.
Bộ phim mang tên “John, 316”, không nổi tiếng và cũng chẳng mấy người Cơ Đốc Giáo biết. Người dịch thuật là Joseph Thành, còn chèn phụ đề và thực hiện một số thao tác khác trên máy tính là Simon Tử.
Augustino Dương đứng trên bục giảng mà cầm micro giới thiệu:
– Tác giả của bộ phim này muốn gởi đến khán giả một câu hỏi, rằng nếu Đức Jesus Christ giáng thế vào thời đại này trong một nhân diện lạ lẫm và địa điểm hoàn toàn khác so với ghi chép trong Thánh Kinh thì sẽ được mấy người nhận ra và được hưởng ơn sủng cũng như phép lạ của Ngài ấy?
Một bà thím giơ tay xin phát biểu. Được sự đồng ý của ông Thầy Dòng, bà thím nhận micro từ tay của một Thừa Tác viên nam mà rằng:
– Phim này có cảnh lõa lồ không Cha? Con nít coi có được hôn?
– Có vài cảnh khỏa thân và… giường chiếu. Nhưng, chỉ quay đại khái, không đi vô chi tiết. Với lại, thầy Dự có gắn hiệu ứng làm mờ hết rồi nên trẻ em coi được. Còn hỏi gì nữa không chị?
Bà thím lắc đầu.
– Tôi xin chân thành cảm ơn ý kiến của chị… Còn ai muốn nêu ý kiến nữa không?
Chờ hơn mười lăm phút nữa, thấy tứ bề lặng ngắt như tờ, Augustino Dương mới ra hiệu cho Matthias Hoàn mở máy chiếu. Vài người đâm ra hoảng sợ khi thấy đèn tắt tối thui, chừng thấy ánh sáng của màn hình mới bình tâm lại. Những đứa trẻ háo hức ngồi ăn bắp rang bơ và bánh Mochi nhân kem lạnh do Antonio Vũ đài thọ; gia đình nào có con nhỏ không đến vẫn được lấy hai món này về ăn, chỉ cần báo cho cố Peter Toàn hoặc cha – con Joseph Thành một tiếng.
Bộ phim có thời lượng khoảng chừng hai tiếng hơn; nhưng ngắt mười lăm phút để mọi người đi vệ sinh. Sau khi bộ phim kết thúc, ai nấy thảy đều như vừa tỉnh cơn mộng. Người trai có mái tóc bồng bềnh cảm thán:
– Rốt cuộc chỉ có người mắc phải vấn đề về sức khỏe tâm thần mới thấy được Đức Jesus Kitô.
Một bà thím giơ tay hỏi:
– Cô diễn viên gốc Á này tên gì vậy mấy Cha?
Augustino Dương trả lời:
– Cô diễn viên này tên là Nina Nguyen.
Ông thợ nhiếp ảnh góp lời:
– Có bộ phim tên là “Mr. Nobody”, diễn viên nữ tên là “Linh Dan Pham”.
Sau hơn nửa tiếng bàn luận nội dung phim, mấy ông Thầy Dòng và ông giáo già mới chiếu phim khác.
Augustino Dương cầm micro giới thiệu:
– “The Maldonado miracle”:
Bộ phim này nói về một đứa bé trai Mễ Tây Cơ theo đoàn vượt biên sang Hoa Kỳ để tìm người cha đang cư ngụ và làm việc bất hợp pháp bên đó. Đáng ra cậu không có liều mạng như vậy, nhưng vì mẹ đã qua đời do không có tiền trị ung thư, cha thì không gởi tiền về nữa, thành thử ở lại cũng chết, chi bằng đánh cược một phen. Trong thời gian lưu lạc tại một thị trấn giáp ranh biên giới Mễ Tây Cơ, cậu đã trải qua rất nhiều chuyện đáng nhớ và thật cảm động, cũng như nguy hiểm trùng trùng và nỗi lo bị cảnh sát Hoa Kỳ bắt được mà bị trả về Mễ trong khi chưa kiếm được cha. Tại thị trấn này, Giáo dân đã bỏ Đạo gần hết và không mấy ai còn niềm tin vào Thiên Chúa; ngay cả Cha Xứ và Thầy Phó Tế cũng nản lòng mà xin bài sai sang nơi khác phụng sự. Nhà thờ hoang tàn và đìu hiu như vùng đất chết. Và lạ kỳ thay, một hiện tượng đã xảy ra trên bức tượng Chúa Chịu Nạn cũng ngay trong thời điểm đó…
Giáo dân đã hiểu được sự lợi dụng đức tin và mại Thánh ra sao.
Cũng như bộ phim trước, sau khi hết phim, các ông Thầy mời Giáo dân thảo luận về nội dung bộ phim.
Một người Giáo dân nêu ý kiến:
– Việc họ tạo chi tiết Đức Chúa nhóm máu O, có thể là vì nhóm máu O cho đi nhiều hơn là nhận lại, và nhóm máu O chỉ có thể nhận lại cùng nhóm máu. Như lời Chúa đã từng nói, “Ta sẽ đến bất kỳ ngôi nhà nào mà họ mở cửa chào đón Ta.” Chỉ có ai thực sự muốn theo Ngài ấy thì Ngài ấy mới nhận họ mà thôi. Ấy là một hình ảnh ẩn dụ rất hay mà biên kịch muốn gởi gắm đến cho khán giả.
Cả hội trường vỗ tay rần rần.
Rồi sau phút giây ồn ã ấy, người Giáo dân ban sáng khen Cha Mỹ giơ tay xin phát biểu ý kiến. Sau khi được chấp thuận, thím rụt rè đặt câu hỏi:
– Chừng nào Cha Cường với Cha Mỹ mới dìa hả Cha Dương?
– Nhớ tụi nó rồi hả?
Thím gật đầu mà ánh mắt buồn xo.
Những lời phát biểu của bà con đã làm mấy ông Thầy hiểu được số phận của hai đứa nhỏ ra sao. Nói đi cũng phải nói lại, thằng Mỹ dễ thương như vậy ai mà không thương cho nổi.
Sau giờ coi phim, bà con trong xóm Đạo ra về hết. Chỉ còn lại mấy ông Thầy già ở lại dọn dẹp hội trường.
Xong xuôi hết thảy, những người bạn cao niên rủ nhau qua nhà thờ quét dọn để sớm mơi tổ chức Thánh Lễ.
Chưa mở cửa bước vào trong đã nghe tiếng chổi quét xào xạc. Vốn chỉ tin nơi Chúa Thánh Thần, vậy mà mấy ông Thầy cũng bị một phen hoảng vía. Người nào người nấy e dè đẩy cửa bước vô.
Thì ra là Nhựt. Nó đang quét dọn nơi Cung Thánh, vừa làm vừa ê a đọc lại những câu kinh trong giờ Phụng vụ và Lễ Misa.
– Ăn gì chưa Nhựt? – Augustino Dương cười hỏi.
Nhựt lắc đầu. Dáng đi liêu xiêu của nó báo cho mọi người hay rằng nó đã bị bịnh nặng. Rồi sau một lúc gắng gượng chống đỡ, nó té đập đầu vô bục giảng; cái trán sưng chù vù một cục, nước mắt – nước mũi thi nhau chảy xuống.
– Ôi giời đất ơi! Bệnh hoạn thế này mà sao không chịu đi nghỉ, gắng làm chi cho ra nông nỗi này, cơ khổ thật chứ!
Giữa lúc Simon Tử ẵm nó lên để chở vào bệnh viện cấp cứu, điện thoại của Augustino Dương báo có tin nhắn mới.
– Lạy Chúa tôi!
Matthias Hoàn hỏi:
– Gì vậy Dương?
– Có ai chuyển cho tôi mười ngàn.
– Chắc chuyển lộn rồi. – Joseph Thành tặc lưỡi.
– Cậu này nói là bạn của thằng Cường.
– Có phải cái gì Liên bên Phật Giáo mà bữa hổm thằng Mỹ nhắc không? – Matthias Hoàn vắt óc một hồi mới nhớ ra là “Thanh Liên”.
– Thôi, mượn đỡ vậy, chớ tiền đâu mà đóng viện phí.
Đến nơi, bác sĩ chẩn đoán Nhựt bị sốt siêu vi, cần phải tịnh dưỡng hơn một tuần mới chắc ăn được.
– Thằng nhỏ có làm lụng cực khổ hay đau buồn gì không mà sao sức khỏe sa sút dữ vậy?
Augustino Dương tinh ý nên đã kể được nguyên nhân nào làm cho thằng nhỏ bị suy sụp tinh thần.
Bác sĩ lo âu hỏi:
– Vậy đám du đãng đó có biết thằng nhỏ này ở đây không?
– Hên xui. Xui thì cậu là người lãnh trước tiên. – Augustino Dương trả lời mà như đang giỡn.
Người bác sĩ ấy ôm đầu rầu rĩ:
– Đúng là “Phúc bất trùng lai, Họa vô đơn chí”.
Cuộc hội thoại giữa đôi bên bị cắt ngang bởi tiếng xô cửa bước vô.
Một người trai đẹp đẽ, khôi vĩ như Thiên Thần quải ba-lô bước vô phòng mà hất cằm chào mọi người.
Người bác sĩ chưa kịp bấm nút báo động, đã bị cây ba-trắc trong tay chàng ta làm cho bất động. Chàng ta cười rộ lên mà nói:
– Tôi đến đây với thiện chí chứ hổng phải đến để đồ sát.
Augustino Dương chắp tay mà hỏi:
– Chẳng hay đại hiệp là người ở đâu?
Chàng ta vỗ vai Augustino Dương mà đáp rằng:
– Tại hạ tên là Trần Hoàng Huy, được lệnh của cha là Tăng sĩ Đoạn Trần – Trần Pháp Dân đến đây làm Hộ Pháp cho thằng nhỏ tên Nhựt… Rồi nó đâu rồi?
Thằng Nhựt tưởng đàn em của ông kia tới bắt nó nên nãy giờ ráng bò xuống giường mà nằm trốn ở đó. Chừng nghe là bên phe mình mới lồm cồm bò ra, làm cái đầu bị cụng một cái đau thấu trời xanh.
– Bác sĩ. Cảm phiền cho nằm kế bên nó.
Bác sĩ run rẩy “Dạ”, “Dạ” lia lịa.
– Biết bây chưa ăn gì cho nên tao lại nhà con mẹ bán cháo bát bửu mua cho bây một phần. Uống thuốc đồ vô đi, rồi ráng húp miếng cháo cho mau khỏe lại. Cháo còn ấm, mau lại ăn đi.
Nói đoạn, Hai Huy ngả lưng xuống cái giường kế bên cho giãn gân giãn cốt.
Trong lúc thằng nhỏ đang “nuốt” cháo, Simon Tử hỏi ý kiến mấy ông Thầy Dòng:
– Chuyện này hình như có liên quan tới Cha Thành giả.
Joseph Thành sợ phiền lụy đến cha con ông Tám Què nên cản:
– Thôi, tha cho thằng chả đi.
Augustino Dương gục gặc đầu:
– Tha cũng được.
Thấy Matthias Hoàn và Simon Tử cự nự, Augustino Dương cười mà trả lời rằng:
– Tha vô tù á.
oOo
Sau những ngày bình yên trên Phụng Hoàng Sơn, nguyên đoàn lữ khách sang Kiên Giang ghé Hà Tiên chơi. Lần này nguyên đoàn mướn homestay của khu nghỉ dưỡng.
Khắc Xương hẹn con khô cá hố chiều nay đi ăn riêng ở một quán ngon trong vùng. Do chiếc xe đã bỏ lại Vĩnh Long nên nếu chiều nay hai đứa có đi thì anh phải mướn xe hơi.
Thay vì trả lời chàng luật sư mập, Quế Trân lại gởi sang bài “Em đã yêu” do Ngọc Lan trình bày, một bản nhạc Pháp trữ tình sôi động không rõ tên gốc lẫn người đặt lời Việt là ai.
Nhận được câu trả lời của Quế Trân, Khắc Xương mừng rơn gọi điện báo cho đấng sinh thành hay.
– Má ơi, má sắp có con dâu rồi.
– Đứa nào mà muốn cưới cục mỡ di động như mày vậy con?
– Có điều người ta hơi lanh với hay vọt miệng nói leo.
– Ui, vợ hơn chồng là nhà có phước.
– Dạ hông, nhà có thêm bà má nữa.
– Vậy để tao sắm sẵn trang thờ.
Ba của Khắc Xương tặc lưỡi than:
– Mô Phật, tội lỗi, tội lỗi.
Không biết má của Khắc Xương đã bỏ đi đâu mà giao lại máy cho ba anh. Ông trách:
– Sao mày ngu dữ vậy con? Mày hổng thấy tao là tấm gương sáng lòa hay sao mà còn kiếm cho bằng được một đứa giống y chang má mày hả?
– Người ta dễ thương mà ba.
– Hồi xưa tao cũng bị má mày gạt y chang vậy đó.
– Ba nói một hồi ba ăn cơm tháng với ngủ ngoài đường luôn đó.
– Ờ, tao quên. “Ôi tôi đã lầm khi theo Em về đây…” Ui da đau, bà!
– Đứa nào lầm đứa nào chưa biết à?
Rồi sau hơn nửa ngày chờ mong, rốt cuộc cũng đến giờ hẹn.
Quế Trân mặc áo dài màu thiên thanh, chân đi guốc mộc, tóc để rũ tự nhiên, ngoài mùi sữa tắm ra không có lấy một xíu dầu thơm. Dòm nhỏ cứ như một hình mẫu đến từ trước những năm 75, nét đẹp dung dị dễ mến trong bộ áo dài không cách tân hay se sua diêm dúa những họa tiết tân thời.
– Ê, mập.
Khắc Xương hoàn hồn:
– Gì vậy cô?
– Quán này sang quá ông.
– Sang gì đâu bà.
Thực đơn có những món rất lạ một đứa vừa quê lại nghèo như Quế Trân chưa từng ăn, nên nàng hỏi ý kiến anh bạn phì lũ rất nhiều.
Vậy là sau khi thảo luận với nhau, Quế Trân và Khắc Xương cùng ăn món satay bò, bánh pizza hải sản với phô-mai Mozzarella, gà nướng bơ tỏi, khoai tây lắc và bánh taco chay.
Trong quán đang phát bài “Year of the Cat” do Al Stewart trình bày, do không biết tiếng Anh nên Quế Trân chỉ biết nghệch mặt nghe mà không hiểu nội dung bài hát ra sao. Đang vừa nghe nhạc vừa uống sinh tố bơ – sầu riêng ngon miệng, chợt bồi bàn đặt một tấm danh thiếp xuống trước mặt nàng và cất giọng xin lỗi mà chỉ sang cái bàn gần cửa lớn – ám chỉ rằng danh thiếp này là của người đó.
Quế Trân đưa tấm danh thiếp cho chàng mập coi.
Khắc Xương nhếch miệng cười:
– Người ta mời cô đi đóng phim kìa.
– Chị đâu có quởn, cưng. Hổng biết cha nội này là ai hết, lỡ đóng phim bậy bạ là chết đời tui sao.
Người tự xưng là đạo diễn không nán lại đợi nghe Quế Trân nói lời đồng ý hay không. Anh ta trả tiền xong là đi liền ra cửa, không ừ hử hay làm dấu hiệu chi sất.
Khắc Xương gọi thêm một phần gà viên chiên xù và một ly nước đá me giải khát. Chưa kịp mở miệng hỏi con nhỏ muốn ăn gì nữa không thì đã nghe nó tâm tình:
– Tui mà thương người Công Giáo chắc làm “Hòn vọng phu” cả đời.
– Sao vậy?
– Rớt Giáo lý Hôn Nhân.
Khắc Xương và người nhân viên được phen cười đã đời.
– Hồi xưa đi học bị tạch điểm Văn hoài hà. Bà con trong họ mà ở xa quá tui còn không nhớ, ở đó mà Thánh Kinh với Thánh Vịnh mí lị Thánh Sử.
– Tới chừng cô thương người ta là cô sẽ “tự động” chẻ đầu nhét chữ vô được liền.
– Liền gì mới quan trọng.
Rồi Khắc Xương giục Quế Trân mau chọn món kẻo nhân viên chờ tội nghiệp. Con nhỏ chỉ biết than trời, mỗi bữa ăn có chén cơm mà còn rề rề mới hết, đi với ông này đã kêu quá trời món mà còn xúi kêu nữa, nên là cô nói lát nữa dành bụng ăn đá bào. Chàng luật sư bèn đặt giùm một phần bánh sandwich tôm.
– Cô theo Đạo nào?
Quế Trân lắc đầu. Vừa che miệng nhai nửa cái bánh taco chay, nàng vừa cười híp mắt kể:
– Lên chùa thì lễ Phật, vô đình thì bái Thành Hoàng, còn ghé nhà thờ thì kính Chúa.
– Vậy cô theo Cao Đài được đó.
Quế Trân đập vô tay của Khắc Xương một cái thật khẽ:
– Thôi đừng có chơi gài độ, ông nội.
Sau bữa cơm, Khắc Xương chở Quế Trân ra biển ngắm sao đêm. Bữa nay biển động mạnh nên địa phương đã thông báo cho người dân và khách du lịch không nên xuống biển; thành ra bãi cát vắng hoe, chỉ có những tàu đánh cá lợi dụng thời tiết lý tưởng mà ra khơi kiếm thêm nguồn lợi tức.
Ngọc Lan đang ca bài “Cho nhau Tình Yêu”, không rõ ai đặt lời Việt từ ca khúc “Tropique” của đôi tác giả Axel de Kirianov – Muriel Dacq. Dẫu đã ăn quá trời nhiều nhưng Khắc Xương vẫn mua cho mình và cô bạn mỗi người một ly trà sữa.
Hai người đang trò chuyện vui vẻ, bỗng đâu có một người đàn ông lại gần chào hỏi họ.
Dù muốn dù không, đôi trai gái ấy vẫn phải qua chào hỏi xã giao với người đó.
– Tôi có quen biết với hai người đâu mà nói nhiều lời. Tôi chỉ đến đây để nhờ hai người về nói giùm với Kiều Xuân là tôi vẫn còn sống. Chỉ vậy thôi.
– Chỉ vậy thôi sao? – Quế Trân ngờ vực hỏi.
Sợ rằng hai người này không tin, người đàn ông lạ mặt đưa cho cô gái gầy gò một cái kẹp tóc rất cũ. Khắc Xương lẳng lặng ghi âm cuộc đối thoại.
– Giờ về luôn hay gì? – Quế Trân vừa hỏi vừa ngó theo bóng lưng thẳng thớm của người trai đẹp mã.
– Sắp mưa rồi. Lát nữa Ổng làm dông thấy đường đâu mà chạy.
Trở về homestay vào lúc bảy giờ hơn, vừa mở cửa lớn bước vào đôi trai gái đã thấy Kiều Xuân và bà Ái Liên đang ngồi ăn kem trên sô-pha. Hiệu kem ốc quế mà hai người khổ vì tình ăn là của “Haagen-Dazs – Butter cookie cone”, Kiều Xuân chọn vị dâu và bà Ái Liên chọn vị cà-phê.
Khắc Xương ngần ngừ mở ghi âm cho Kiều Xuân nghe, không quên đưa cái kẹp tóc mà người đàn ông đó đã nhờ anh trao cho cô Út Hương.
– Đây đâu phải là giọng của ảnh đâu. Hồi trước tôi hay nói chuyện với ảnh nên nhớ rõ dữ lắm.
Cô Tư Lành hỏi:
– Còn cây kẹp này thì sao?
Sau một đỗi săm soi, Kiều Xuân mới trả lời:
– Đúng là kỷ vật của tôi và mối tình đầu…
Nhóm anh em Công Giáo vừa ra ngoài biển tắm, người nào người nấy mình mẩy ướt nhẹp như chuột lột, biết rằng biển động nhưng do chỉ còn ở lại đây hai ngày nữa nên họ phải tranh thủ thời gian ra tắm cho thỏa thích.
– Xuân… – Stephen Đoàn cất giọng buồn rượi mà gọi.
Kiều Xuân nói bằng giọng rầu rầu:
– Em nghĩ anh vẫn còn sống, và chuyện trở về của ảnh có liên quan tới ba của anh, rất có thể sau này ổng sẽ nhờ anh giúp điều gì đó.