Chương 178: Hồi Ba Mươi Lăm: Như mây mùa Hạ (a)
- Trang Chủ
- Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt - Tùy Tâm Sở Dục
- Chương 178: Hồi Ba Mươi Lăm: Như mây mùa Hạ (a)
Nơi phòng Rửa Tội, Stephen Đoàn đang quỳ với đôi tay chắp trước tượng Đức Chúa Jesus. Anh đã quỳ ở đây gần một tiếng mấy mà chẳng ai hay biết. Nói cho vui chứ anh đến một cách vô tung, người gác cổng còn chẳng buồn níu lại hỏi han anh một câu. Ai biểu mặt mũi anh khó ưa quá làm chi.
Stephen Đoàn vừa mới nhỏm dậy, chợt thấy bóng ai đổ xuống sàn nhà nên thần hồn nát thần tính quay phắt lại nhìn.
– Con có biết lý do nào đã khiến Thầy không đồng tình với quyết định trở thành Linh mục của con không?
Stephen Đoàn sững sờ nhìn Cha Matthias Hoàn.
– Tánh tình của con quá ư nghệ sĩ. Thấy lá rơi cũng buồn, thấy hoa vương trên thảm cỏ con cũng có thể khảy một khúc nhạc sầu. Sao mà sống đời Cha Đạo nổi?
Rồi Matthias Hoàn biểu con trai theo ông lên phòng riêng của mình để hàn huyên tâm sự cho kín đáo. Phòng của ông nằm trong khu tu xá của trường Dòng.
Đã lâu Stephen Đoàn mới ghé thăm “nhà” của Thầy. Chỗ ấy là một căn phòng có diện tích ba mươi mấy mét vuông, tuy nhỏ xíu nhưng được cái có nhà tắm và cầu tiêu riêng, cộng thêm chiều cao gần được năm mét nên sinh hoạt cũng khá thoải mái và không ngột ngạt mấy. Tiền sảnh có bề dài chỉ chừng mấy tấc, bên trái để tủ đựng giày và ghế ngồi thay, bên phải gắn một thanh móc treo đồ và dù. Phòng khách ngăn với giường ngủ bằng một bức màn rũ đơn giản và trơn màu. Nhà tắm nằm ở dưới chân giường ngủ, cách nhau độ khoảng nửa thước; cửa phòng tắm nằm đối diện với cạnh bàn viết, ra – vô hơi khó khăn một chút vì khoảng cách giữa đôi bên chưa tới nửa thước. Cửa sổ ở bàn viết là nơi thu ánh sáng và trao đổi khí trời duy nhất trong “nhà”. Và dù “nhà” nhỏ xíu, nhưng Thầy vẫn dành ra vài nơi để bày chậu kiểng và chò cây, nhờ vậy mà bức tường vàng ấm cũng bớt đi sự đơn điệu và nhàm chán.
– Emmanuel Ngô trước đây hay gọi con là “Dinky”, đó là tên của chú vịt đen trong bộ phim cùng tên với nó. Tuy ngoại hình rất xấu xí, nhưng vì có trái tim hết sức nhân hậu và quả cảm nên ai nấy ở nông trại thảy đều yêu quý nó.
Phòng khách chỉ có một băng ghế dài, một cái đôn nhỏ và một cái bàn trà; hết thảy đều làm bằng mây và có thể xếp gọn lại được. Matthias Hoàn mời con trai cùng mình ngồi trên cái băng ghế dài, rồi cột lại hai bên màn vải cho không gian thoáng đãng hơn. Nhờ vậy Stephen Đoàn mới thấy chiếc giường của Thầy được sắp xếp rất gọn gàng và không có “mùi già” lưu lại trên đó.
– Thầy sẽ không cản nếu con có ý định hoàn tục.
– Con không hiểu?
– Thầy chỉ muốn con được hạnh phúc thôi Mỹ ơi. Con sống giữa bầy Chiên và bạn hữu Mục Vụ mà trơ trọi như Hoàng Tử Bé sống ở tinh cầu B612.
– Hoàng Tử Bé còn bông hồng kiêu kỳ làm bạn mà Thầy.
– Và con cũng vậy. Bông hồng của con không kiêu kỳ mà hơi khùng khùng chút.
– Thà như thằng gù nhà thờ Đức Bà bị tưởng bở rằng nàng Esmeralda yêu hắn, thì sẽ dễ dứt tình hơn là nàng cũng yêu lại hắn ta.
– Hai Thầy trò mình ra quán nhậu của mệ Bông hen?
Sau khi thay sang thường phục, hai cha con mới tới đó. Nhưng đến nơi rồi, hai người vòng ra sau bếp để trò chuyện với mệ Bông chứ không ăn uống gì. Trước đây mệ Bông là một trong những đầu bếp của trường Dòng, sau có chồng nên xin nghỉ và ra đây mở quán nhậu để có tiền nuôi bầy con và người anh chồng khật khùng phụ với đức lang quân.
Có ai đó đang nghêu ngao ca khúc “Cho tôi được một lần” của nhạc sĩ Bảo Thu. Bài hát này được các giọng ca trước năm 75 như Xuân Sơn, Thanh Tuyền, Lệ Thu, Hương Lan, Trúc Mai, Paolo Tuấn và sau năm 75 như Mạnh Quỳnh, Tuấn Vũ,… độc diễn thật hay; còn về phần song ca, có Như Quỳnh – Thế Sơn và Y Phụng – Lâm Nhật Tiến trình bày cũng khá hợp giọng. Theo ý kiến riêng của Matthias Hoàn, người ca hay nhứt bài này là anh chàng Paolo Tuấn:
“… Cho tôi được một lần nhìn Quê Hương ngời sáng
Một lần nhận nghĩa sống lên ngôi
Người người cùng chung vui một lối
Đời thôi không lừa dối
Vì đã yêu thương rồi…”
Tình cờ gặp hai anh em họ Võ bước ra từ nhà vệ sinh, Stephen Đoàn niềm nở giới thiệu với Cha Hoàn:
– Anh Năm Tường, Mục sư, ở chung nhà với Giáo dân xứ con.
– Anh họ tôi, Kiến Hữu.
Võ Kiến Hữu chắp tay thưa hai thầy trò, rồi xưng mình là cư sĩ tại gia của hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Đôi bên hỏi han xã giao vài câu, rồi tan hàng.
Ngồi chưa ấm chỗ mà Matthias Hoàn đã bị gọi về để xét lại một số bài thi Toán bị chấm điểm sai. Ông cáo lỗi với con trai và mệ Bông, rồi hớt hải chạy ra trước cửa quán để leo lên chiếc taxi đã được Cha Bề Trên đặt sẵn.
Mệ Bông bận rộn quá xá nên Stephen Đoàn xin phép ra về. Anh đi bằng lối cửa hậu nên hai anh em họ Võ không hề hay biết. Từ đây đi thêm vài cây số là ra tới cầu Chữ Y.
Con hẻm có rất nhiều chuột cống, gián hôi và thằn lằn; ruồi nhặng thì bao la. Mùi hôi thối của rác rến và nước cống nặc nồng đến độ nếu ai mà lỡ bước ra đây dám chừng sẽ chạy về luôn, chứ không tài nào ngồi ăn nhậu nổi. Không có một bóng đèn chiếu sáng, ban đêm nơi này đi không khéo giẫm phải chuột là chuyện thường tình; chắc có lẽ anh sẽ tự bỏ tiền túi ra mua vài cái bóng đèn sử dụng năng lượng mặt trời để nơi này đỡ ghê rợn.
Càng tới đầu hẻm, bầu không khí càng dễ thở hơn. Ánh nắng mặt trời chiếu xiên qua patio trên lầu Hai của ngôi nhà nằm mé tay trái rồi hắt lên bức tường của nhà đối diện tạo thành những hình thù kỳ dị. Giờ anh mới nhận ra, tầng trệt của nhà nào cũng không có cửa hậu hay cửa sổ trổ ra ngoài đây. Nếu như họ biết gớm và khó chịu với cái mùi thúi hoắc kia thì tại sao không chịu chung tay dọn dẹp và tu sửa lại?
Quán cà-phê kiêm chỗ đánh bi-da nơi đầu hẻm đang phát “Liên khúc Lambada” do song ca Trung Hành – Ngọc Lan biểu diễn; một vài bản nhạc ngoại quốc trong đây do hai ca sĩ đặt lời Việt:
“… Ngày yêu nhau, nắng Hè về sưởi ấm nhau
Nhưng gió lên, rồi mưa xuống cho tình tan…”
Stephen Đoàn biết được vài ca khúc trong đây. Đầu tiên là bài “Happy together” của đôi tác giả Garry Bonner – Alan Gordon do ban “The Turtles” biểu diễn. Còn đoạn ca sĩ Ngọc Lan hát là bài “Michelle” mà ban “The Beatles” đã trình diễn rất thành công, đây là một sáng tác của hai ca sĩ kiêm nhạc sĩ John Lennon – Paul McCartney; có lẽ nhờ phần hòa âm phối khí mà màn trình bày của cô Lan nghe hay hơn bản gốc, theo thiển ý của anh là vậy. Ngoài ra, là bài “Beautiful Sunday” của đôi nhạc sĩ Daniel Boone – Rod McQueen và bài “T’as le look Coco” của đôi nhạc sĩ Richard Sanderson và Marc Attali – nhạc sĩ Lê Đức Cường đặt lời Việt và lấy tên là “Xuân yêu thương”.
Stephen Đoàn cứ để mặc đôi chân dẫn mình đi trong vô định. Rồi không hiểu sao anh thấy mình dừng chân ở bến xe miền Tây; có một chiếc xe sắp khởi hành về Kiến Hòa, lơ-xe “lùa” khách như gà mái hối bầy con về ổ tránh dông. Anh bỗng nhớ ở cái tỉnh lỵ nhỏ xíu đó có một người con gái thương anh thật lòng, như lời nghệ sĩ Trần Thiện Thanh đã từng miêu tả trong bài “Mùa Xuân lá khô” của ông, Xuân giống y vầy:
“Em tôi không đẹp như đời tưởng
Không áo xanh, áo đỏ thơm hương
Quen trên đường chiều lá khô rơi
Ôi ngọc ngà giây phút chung đôi…”
– Ông Thầy mặc đồ đen, có đi hôn? Sao đứng đó nhìn chằm chằm vô cái xe hoài vậy?
– Tôi…
– Đi hôn? Đi thì leo lên lẹ lên. Xe còn trống mấy chỗ hà.
– Tôi không đi. Rất xin lỗi.
Lơ-xe lầm bầm chửi, rồi ngoảnh mặt ra hướng khác mà bắt tay làm loa kiếm khách đi lạc.
Stephen Đoàn lại để mặc cho đôi chân muốn dẫn mình đi đâu thì đi. Màu áo chùng thâm với phần cổ trắng và dây chuyền mặt Thánh Giá đã làm anh nổi bật giữa dòng người qua lại như thác lũ. Sài Gòn chập choạng tối rộn rịp vui bao nhiêu, thì cõi lòng anh lạc lõng bấy nhiêu. Anh đưa mắt nhìn xe đẩy bán bánh tráng trộn, bà chủ đang ngồi ngáp ngắn ngáp dài đợi khách; rồi lại đưa mắt ngó sang bên kia đường, đang xảy ra một vụ cự lộn vì quẹt xe với nhau, vô số người giơ điện thoại lên ghi hình, và ít ỏi thay số người cúi xuống giúp đỡ cô học trò đang nằm sõng soài trên mặt đường nhựa. Ánh đèn màu đô thành phựt cháy, mặc cho trời hãy còn tang tảng sáng vì đương là mùa Hè – ngày dài đêm ngắn. Mấy đứa trẻ cù bấc cù bơ tập tành hút thuốc lá dưới bóng râm của cây thầu dầu; đứa nào đứa nấy da dẻ đen nhẻm, đầu tóc thì cháy nắng, mình mẩy hôi tanh mùi lâu ngày chưa tắm giặt, tay chân khẳng khiu như con rối gỗ. Một cô gái bán phấn buôn hương đang dẹo qua dẹo lại với thằng bạn chung nghề, hai người thốt lên những lời lẽ khả ố và dung tục khôn ngần, càng nghe – đôi môi anh càng mím chặt lại. Tới đầu con hẻm, một người đàn bà đang cầm chổi đánh đí* đứa con do nó học ngu; tiếng la khóc, van vỉ của thằng nhỏ phối hợp với tiếng gào thét chát chúa của con mẹ sĩ diện hão không khác chi một thứ âm thanh phát ra từ Hỏa Ngục, anh bịt chặt tai, lúc lắc đầu không muốn nghe – muốn thấy. Bước qua con hẻm, một cô vợ đang đứng trước ngôi biệt thự mà đấu tố thằng chồng với người theo dõi trên Facebook, không quên đặt điều hay thêm thắt để rước phần lợi về cho mình. Đi thêm vài căn nữa, một người phụ nữ bị chồng quát tháo và đánh đập do không đi mua rượu và mồi nhắm cho nó nhậu, mà lại dành tiền đó để con ghi danh vô lớp học thêm của bà chủ nhiệm đặng con gái không bị bà ta đì. Anh thất thần đi giữa triền miên khổ ải của chốn trần gian, đôi mắt anh nhòa lệ tự bao giờ mà anh chẳng hề hay biết…
Chợt, Stephen Đoàn nghe thấy “Sài Gòn trong trái tim tôi” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông qua phần trình bày của “Họa mi xứ Huế” Hà Thanh; trong bài này ông ghi bút hiệu là Anh Nguyên:
“… Sài Gòn đó dẫu dìm trong bóng đêm
Vẫn còn trong trái tim
Muôn đời đâu dễ quên…
Sài Gòn yêu trong trái tim tôi
Người ngàn sau theo dấu linh xưa
Mặc thời gian thường hay thất hứa
Sài Gòn đó!
Nước non lúc suy, lúc cường
Ánh trăng lúc vơi, lúc đầy
Gối chăn lúc say, lúc hờn
Có chăng Nghĩa – Nhân vững bền
Thủy chung trước sau chẳng sờn… tấc lòng
Sài Gòn ơi…”
Có những nhạc sĩ đã giã từ trần gian rất lâu rồi mà người đời vẫn ưu ái gọi kèm với những chức vụ và đơn vị trong quân đội mà họ từng đảm trách. Mới hay tài đức của họ đã lấn át mọi bức bình phong do một đám hậu thế dựng lên, để rồi những bài hát của họ lại tô điểm cho cõi đời bằng những giai điệu hay và những lời ca – ý nhạc thấm đẫm Hồn dân – Hồn Nước.
Người thương – phế binh đang ngồi sửa đồ cho khách, cạnh đó là hiền thê của ông đang đứng quạt ruồi cho xe bán hàng của mình. Stephen Đoàn ngó thấy trong tủ kính có bò bía, gỏi đu đủ – khô bò, nguyên liệu cho món bột chiên và phá-lấu; ngoài ra còn một nồi cháo trắng nấu với lá dứa để dành ăn với phá-lấu.
– Bài hồi nãy hay quá ông hén?
Vừa cắt chỉ cho cái quần mới lên lai, ông cụ vừa cười biểu:
– Ờ, nhưng mà dân Sài Gòn gốc còn được mấy người.
– Miễn mình sống tốt thì tự khắc mình sẽ trở thành cái gốc của nơi đó thôi.
Ông cụ gật gù:
– Phải, Sài Gòn trước giờ là nơi cưu mang mà, chỉ có điều nó dễ duôi quá nên thường bị cưu mang lầm người.
Ngồi ăn ủng hộ vợ chồng ông thương – phế binh mấy dĩa bột chiên với gỏi đu đủ – khô bò, Stephen Đoàn mới lên xe lam đặng trở về Giáo xứ.
Ngồi trên chiếc xe lam đã nhuốm hương lửa thời gian rất nồng, Stephen Đoàn tự nhiên nảy ra suy nghĩ đấng sinh thành của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông thật là tài, vì đã tiên đoán trước con của hai cụ là một bậc chính nhân quân tử nên đã ban tên “Đông” – Phương vị của Mặt trời mọc – cho ông. Còn mẹ anh, chắc ngó thấy bộ dạng dị hợm của núm ruột nên đã ban cho anh cái tên “Ngọc Mỹ”, như một lời an ủi giàu tình thương của một bậc hiền mẫu dành cho đứa con giống chồng hệt khuôn của bà. Nếu mẹ anh còn sống, ắt hẳn anh sẽ ngồi đàn hát cho bà nghe bài “Đèn khuya” của nhạc sĩ Lam Phương và “Lòng Mẹ” của nhạc sĩ Y Vân suốt đời suốt kiếp mà không biết mỏi mệt.
Một bà già mặc áo lam, chắc sẽ trạc tuổi với mẹ Stephen Đoàn nếu mẹ anh còn sống, đang than phiền với bà bạn về thằng con bất hiếu, ngày nào nó cũng vô karaoke ôm gái và đàn đúm với đám bạn du đãng.
– Tui cúng chùa quá trời quá đất mà hổng linh gì hết trơn. Rồi còn làm lễ trục vong mà cái vong bất hiếu cứ theo ám nó hoài.
– Bà phải “cúng” vô cái mỏ nó mới hết bất hiếu. Lên đó chỉ tổ nuôi mập thây mấy ông thầy chùa và lũ đồng bóng dị đoan. – Anh lơ-xe trề môi phán một câu. – Con tui là tui cho nó diễn kịch “Không gia đình” rồi.
– Có phải con cậu đâu mà cậu xót? Tui mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày nên thương nó còn hơn thương cái mạng mình.
– Xót con có hiếu chứ ai xót dòng bất hiếu hả bà?
– Con tui bất hiếu kệ bà nó. Có phải con cậu đâu mà chửi nó dữ vậy?
Anh lơ-xe trợn tròn mắt:
– Chửi hồi nào? Trời ơi đi chùa mà ăn ngang nói ngược thấy bà cố nội tui luôn!
Bà bạn can ngăn:
– Ừ, cậu đây nói phải đa. Bà binh con riết mất lý trí rồi.
Những người khác cũng lên tiếng khuyên giải, Stephen Đoàn cũng góp đôi lời.
– Í, Thầy đây là Cha nhà thờ phải hôn?
Stephen Đoàn nhỏ giọng trả lời:
– Dạ, thưa phải.
– Có thể giúp bà trừ quỷ cho con trai bà được hông?
– Chừng nào bà hết tiền nó mới hết bất hiếu thôi. Đó, tui chỉ cách trừ quỷ rồi đó.
– Nín mậy!
Bà bạn tặc lưỡi rồi biểu:
– Bà Đạo Phật mà.
– Kệ, Đạo gì cũng được, miễn sao giúp con tui cải tà quy chánh là được rồi.
– Có nước “Đạo Tặc” mới giúp con bà hết bất hiếu thôi. Giờ nó coi bà là cái mỏ vàng, dễ dầu gì nó sửa mình vì bà.
Nguyên cái xe cười rần trời. Cũng may phước là cẩu chưa nói “Đạo Dụ”.
Stephen Đoàn lực bất tòng tâm. Con quỷ trong lòng anh, anh còn chưa trục ra được, thì biết cách gì mà giúp chàng trai xa lạ đó “trục quỷ” được.
Không nhận được lời hồi âm của Stephen Đoàn, bà già tiu nghỉu nhìn đăm đăm vô hai lòng bàn tay.
Gần đến một ngã tư, anh lơ-xe thông báo đã tới bến Thứ Nhứt; những người đi khúc đường đó bèn lục tục xách đồ bước xuống, có vài người còn gởi lại hai, ba câu chúc tốt lành cho anh và bác tài-xế. Stephen Đoàn ngó ra coi thử thì điểm dừng nằm chính giữa sạp bán trái cây và đại lý nước giải khát.
Đi được một đoạn, chợt anh lơ-xe biểu bác tài ngừng xe để rước Ni Cô lên. Người đâu mà đẹp quá chừng.
– Ủa? Là Thầy sao?
Bà già bĩu môi:
– Hết diễn tuồng “Lan và Điệp” nghen con?
Thanh Liên chắp tay nói, “Sadhu”, rồi ngồi xuống ở chỗ trống còn lại. Chú tự biết hình hài mình rất âm nhu nên thường bị lầm là phái nữ, thành ra không cảm thấy phiền lòng với sự nhầm lẫn Trời ơi Đất hỡi của anh lơ.
Đứa con quý tử của bà kia đang òn ĩ xin tiền. Bà nước mắt lưng tròng nghe nó ngọt – nhạt than khóc với mình, chưa qua một khắc mà cái khăn tay đã ướt đẫm lệ.
– Rồi, để má ráng thu xếp…
Thấy mục đích đã đạt được, hắn ta cúp máy cái rụp.
– Ông Trời ơi, con có lỗi gì mà nó hành hạ con như vậy.
Thanh Liên đáp:
– Lỗi chiều hư con mình.
Bà day qua nhìn người Tăng sĩ có nốt chu sa trên trán mà cự nự:
– Mẹ nào mà không thương con hả Thầy?
– Thương con khác với chiều con. Thương con nên rầy rà sợ nó hư, chiều con nên nó đòi gì cũng ưng thuận hết. Thí chủ nằm ở vế thứ hai.
Bà phân bua:
– Con đâu có biết nó lấy tiền đi đàn đúm đâu.
– Đúng là hồi đầu thí chủ không biết vì tưởng nó bị thầy – cô đì do không đi học thêm chỗ họ nên phải đưa tiền cho nó đóng, sau này đã biết rồi mà vẫn làm lơ đưa luôn, nó thấy dễ ăn quá nên đâu chịu sửa mình.
– Vậy bây giờ con phải làm sao Thầy?
– Đừng đưa tiền cho nó nữa. Và hãy nói cho nó nghe gia đình thí chủ đang nợ nần ngập đầu ra sao.
– Con sợ nó tự vẫn quá Thầy ơi.
– Mấy đứa ăn chơi đàn đúm khó đi tìm cái chết lắm.
– Rủi nó tự vẫn sao Thầy?
– Để nó trải qua những phút cận tử, nó mới biết quý trọng mạng sống. Nhưng nhằm phòng ngừa trường hợp đó xảy ra, bà hãy chuyển gia đình về quê ngoại sống vì ở đó không có lầu, cũng như không có nhiều tụ điểm ăn chơi, phá của.
– Dạ.
Ngừng một lát, bà kia không an lòng nên gặng hỏi:
– Nhưng lỡ nó trốn về Sài Gòn thì sao?
– Kệ, cứ để nó lăn lóc vài tháng là tỉnh ngộ hà.
– Lỡ nó bị cướp nội tạng hay bị cưỡng bách làm nô lệ lao động sao?
– Cứ kêu “Thiện Tài Đồng Tử” ra cứu.
Bà kia trợn tròn mắt, ra chiều chưng hửng lắm:
– Ủa? Trước nay bên mình gặp nạn toàn niệm Pháp Hiệu của Phật Bà hay Phật Tổ, đâu có niệm Pháp Danh của Hồng Hài Nhi đâu.
Một trận cười giòn như bắp rang vang lên. Lơ-xe là người cười nhiều nhứt trong đám.
– “Thiện Tài Đồng Tử” có hai “hóa thân”: Một tên là Hai Thương, giới giang hồ hay ghẹo là “Thiên Nhai Khách” vì phương châm “Tứ hải giai huynh đệ”; và hai là Ba Beo, giới sông nước hay đùa là “Beo Đốm” vì mình mẩy lốm đốm vết bầm và thương tích. Hễ gặp chuyện thì cứ hô lên, “Tôi là đàn em của…” hai người trên là tự khắc bình an.
Bà che miệng cười ngất.
Lơ-xe chen vô hỏi:
– Thầy tu mà sao rành rẽ chuyện xã hội đen vậy?
– Người đầu tiên là anh ruột của đệ tử tôi, còn người sau là cháu nội của chiến hữu của Thầy tôi.
– À…
Lơ-xe ngứa miệng hỏi:
– Chẳng hay gốc gác Thầy ra sao?
Vì muốn chỉ đường dạy con cho nữ thí chủ kia nên Thanh Liên trả lời rộng hơn câu hỏi ban nãy:
– Mẹ tôi từng cặp với người đã có vợ mà sanh ra tôi. Mẹ tôi tên Liên, tôi tên Thanh, nên tôi đặt Pháp Danh là “Thanh Liên”. Bà lụy tình quá nên đã treo cổ quyên sinh dù cái thai trong bụng, là tôi, đã được hơn bảy tháng. May phước Thầy tôi dẫn đệ tử đi khất thực ngang qua, tình cờ dòm thấy qua khung cửa sổ mẹ tôi giãy giụa trên xà nhà nên đã phá cửa xông vô ứng cứu. Rồi Thầy và huynh trưởng mới cởi bớt một lớp áo cà-sa để đắp lên người mẹ tôi cho bà đỡ lạnh vì bà bắt đầu chảy máu dưới. Không nhờ huynh trưởng mau chân chạy đi kêu người tới cứu, và Thầy tôi ở lại nấu nước sôi chườm trán cho bà, có lẽ tôi và mẹ đã chết queo.
Kể từ sau vụ việc đó, ông chủ nhà đuổi hai mẹ con tôi ra đường vì sợ bà nghĩ quẩn nữa. Không còn chỗ nào để đi, bà đành xin Thầy tôi cho nương náu ở chùa, Thầy tôi chịu liền. Người đời không hiểu bắt đầu vu vạ là Thầy tôi có dan díu với mẹ tôi, bèn gọi ngôi chùa mà Thầy đang ở là “Đan Thanh”. Mẹ tôi lại có tật kén ăn hậu thai sản do thay đổi máu huyết, nên Thầy lại phải mở lớp luyện thi kiếm tiền nuôi bà; Thầy điềm nhiên khuyên, “Không ăn uống gì thì lấy đâu sữa cho con nó bú?” Sẵn không ưa mẹ tôi, cái người nghe lỏm câu đó về hộc lại với chòm xóm rằng, “Đứa nhỏ đó là con ruột của ổng với con mẹ lang chạ đó. Thầy chùa mà nó còn hổng tha, bây ráng liệu giữ chồng mình.” Thầy tôi oan còn hơn “Quan Âm Thị Kính”.
Từ chuyện đời của Thanh Liên, bà kia đã nhận ra mình dạy con sai ở chỗ nào. Thay vì đưa con đến những nơi có người đạo cao đức trọng, bà lại ép nó phải ngồi trong mấy cái lớp của đám chuột gõ đầu trẻ vì sợ nó không đi học thêm thì sẽ bị đì. Lâu dần, không ai bảo ban nó điều hay lẽ phải hoặc chỉ biểu nó khai phóng tư duy theo chiều hướng tốt đẹp cho mình và cho đời, đã vậy đám đó suốt ngày xúi nó “học tủ”, “ôn theo đề” và “làm văn mẫu” để được lên lớp với số điểm cao, đầu óc nó dần lụn bại và nảy sanh sự xạo láo, ma lanh để giành phần lợi về cho mình.
– Trời ơi! Con giết con của con rồi Thầy ơi!
– Không trễ đâu thí chủ. Hãy cho con của thí chủ một lần nếm trái đắng từ việc sống dóc láo, nó sẽ tỉnh ngộ ra thôi.
Bà kia chắp tay xá Thanh Liên lia lịa mà lệ nhòa trên mi. Chú bình thản làm ấn thủ “Ban phước”, rồi niệm, “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.”
Một ông bác hỏi:
– Thầy ơi, Thầy có lời khuyên nào cho tôi không?
– Đừng thấy người ta mặc áo nâu sồng mà tùy tiện gọi “Thầy tu”.
Ông bác nghe xong gãi đầu cười mắc cỡ.
Hai người Phật Tử nằng nặc đòi theo Thanh Liên về ngôi chùa mà chú đang cư ngụ để chiêm bái và kỉnh Phật.
– Chùa của tôi bị cướp rồi còn đâu.
– Trời đất ơi!
Anh lơ-xe cười mỉa mai:
– Tại đất lên giá quá mà.
Một người thanh niên vung nắm đấm lên mà hỏi:
– Sao Thầy không thưa đám đệ tử Ma Vương đó ra tòa?
Thanh Liên nở nụ cười đẹp tựa đóa sen thơm:
– Đấng Thế Tôn chứng đắc quả vị dưới cội bồ đề, chứ không phải là ở một ngôi chùa nguy nga, tráng lệ như lâu đài. Có chùa cũng được, không có cũng chẳng sao. Miễn tâm có Phật và duy trì Bát Chánh Đạo cùng Giới Luật là được rồi.
Đáng ra Stephen Đoàn đã trở về Giáo xứ, nhưng anh muốn học hỏi cách truyền đạo của người Tăng sĩ (chắc theo Nguyên Thủy Phật Pháp) nên không xuống bến. Hình như hiểu được ý nghĩ của anh nên vị thầy tu đó nhìn anh tủm tỉm cười hoài.
– Chỗ này phải hôn Thầy? – Anh lơ-xe sốt sắng hỏi.
– Dạ, thưa phải. Xin thí chủ đợi tôi vô lấy tiền trả.
– Thôi, trả gì, có nhiêu đâu.
– Tích tiểu thành đại. Với lại, xăng đang lên giá, thí chủ và thí chủ kia cũng cần ăn cơm để sống chứ không thể hít không khí sống được. Đợi tôi nghen?
Anh lơ-xe gãi đầu cười ngỏn ngoẻn:
– Ừm… Lẹ lẹ nhen?
Thanh Liên chắp tay mà cúi đầu thưa:
– Dạ.
Người Cận Sư Nữ một thời lầm lạc ấy chạy ra rước con trai vô quán chay của mình. Bà vẫn luyến tiếc mái tóc xoăn tự nhiên rất đẹp của mình nên không chịu xuống tóc.
Thanh Liên quỳ rạp xuống đảnh lễ mẹ chú. Rồi mới sóng vai mẹ bước vô quán, không quên nhờ bà trả tiền xe giùm mình.
Bà kia lại được phen quay sang than khóc với người bạn đồng Đạo.
Vừa trả tiền xe giùm con trai, bà Liên vừa nói:
– Thôi, con mình sai ở đâu, còn mình chiều hư nó ở chỗ nào, chắc chị đây cũng đã hay. Cho phép tôi mời hai chị vô ăn cơm chay nghen?
Bà kia gắng gượng làm mặt tỉnh mà theo bà bạn vô quán ngồi chơi.
Ăn cơm hoài riết cũng ngán, nên hai bà biểu đổi sang bánh canh chay. Về phần đồ uống, họ chọn nước sơ-ri nấu khóm bỏ thêm đá viên để giải khát.
Không thấy Thanh Liên ăn uống gì, bà bạn của bà kia thắc mắc hỏi. Thì chú trả lời như vầy:
– Theo giới luật của Đấng Thế Tôn, Tăng sĩ không được phép ăn bất cứ thứ gì sau Chánh Ngọ. Ngoại trừ trường hợp bị đau bịnh hoặc “vạn bất đắc dĩ” thì mới được du di ăn phi thời.
– Vậy sao bên Bắc Tông…
– Tôi không thể trả lời, thành thật xin lỗi thí chủ.
Bà kia hỏi:
– Sao kinh sách nhiều dữ vậy Thầy? Mà sách này “đá ý” sách kia.
– Có ba tạng: Tạng kinh, Tạng luật và Tạng luận. Vế chót thường dễ bị lẫn lộn là vế đầu; và trên thị trường thường bày bán Tạng luận do Tăng nhân hoặc người đời sau biên soạn và luận giải, đâm ra mới có chuyện sách này “đá ý” sách kia. Chứ Tạng kinh giống như dòng nước đổ từ Hy Mã Lạp Sơn về Đông Hải, dầu cho bị hậu thế “nhào nắn” dòng chảy ra sao thì nước bên trong vẫn là nước chứ không thể biến thành dung nham hay axit được.
Stephen Đoàn kiếm một góc trong quán mà ngồi. Anh không hiểu sao cùng một quán mà bên đông – bên ế nên cất tiếng hỏi mẹ của sư thầy. Và ồ lên thích thú với câu trả lời của bà.
– Tôi muốn hỏi Thầy một câu được không?
Thanh Liên làm động tác mời phát biểu.
– Tôi không thể giảng Đạo một cách lưu loát hay nêu ra một ví dụ dễ hiểu như Thầy. Phần lớn Giáo dân trong họ Đạo của tôi và Cha Sở vẫn còn xích mích với nhau về chuyện Cha Lớn tiền nhiệm, nên Thánh Lễ nào cũng…
– “Chỉ có Sự Thật mới giải thoát anh em”, câu đó bên Đạo của Thầy phải không?
Hơi ngỡ ngàng nhưng Stephen Đoàn không hỏi nguyên do nào mà sư thầy này biết câu đó, nên anh nói:
– Phải.
– Tôi nói thật nên sẽ mất lòng Thầy.
– Tôi sẵn lòng nghe.
– Thầy trải qua rất nhiều đau khổ về nội tâm ở tuổi ấu thơ và cả bây giờ, nhưng chưa từng trải qua một cơn đau nào về thể xác, tức là Thầy trải đời rất ít mà kinh sách thì nhiều nên bài giảng thiếu sinh động, từ đó dẫn tới chuyện Giáo dân không hứng thú nghe.
– Vậy Thầy đã trải qua cơn đau thể xác nào?
– Trước lúc chính thức xuất gia làm Tăng sĩ, tôi đã bị mấy đứa nhỏ trong xóm chùa đánh hội đồng vì tin theo lời của cha mẹ chúng rằng tôi là con của Thầy tôi. Rồi những lần đi khất thực không ai cho, có lần còn bị một vài thanh niên cố tình ủi xe gắn máy vô lưng hay xô tôi té. Tới những lần bị hàm oan đến nỗi bị lôi lên phường vì bị vu là ngủ với vợ người ta. Bây giờ là bị cướp luôn chùa.
Từ trên quầy thu ngân, tiếng hát thánh thót của Kim Tước trong bài “Tìm nhau” của nhạc sĩ Phạm Duy vang lên những lời đạo ca thật đẹp đẽ. Nội dung của ca khúc đã làm Stephen Đoàn ngộ ra được thứ mình chưa từng có trong đời sống Linh mục. Anh đã hiểu mình chỉ biết phục dịch Chiên để đỡ đần phần xác cho họ, chứ còn về phần hồn anh chưa từng đỡ đần được ai. Giáo dân ở đó dựa dẫm vào anh về phần xác theo chiều hướng lợi dụng, chứ ít có ai tin yêu anh thực sự.
– Nếu muốn rao giảng lời Chúa, Thầy phải đi…
– Tôi hiểu rồi. Cảm ơn Thầy.
– Sadhu.
Trước lúc chia tay với người Linh mục để vào phòng tọa thiền, Thanh Liên góp ý:
– Thầy nên để Giáo dân cùng mình xây dựng Giáo xứ, chứ không phải là ôm đồm hết vào mình. Như Cha Sở của Thầy đó, anh ta không bao giờ để cho ai sai biểu mình như con ở, cái gì đáng thì anh ta sẽ giúp hết mình – còn không thì sẽ từ chối thẳng, thành ra nhờ sự quyết đoán và dứt khoát của mình mà ai cũng nể trọng và tin tưởng anh ta.
– A…
Rồi Stephen Đoàn ngập ngừng hỏi:
– Thầy có tham gia hội đoàn không?
– Không. Đức tin dựa vào hội đoàn dễ bị biến chất lắm. Đó là quan điểm của tôi về Đạo của tôi, chứ tôi không nói đụng tới Đạo của ai hết.
– Mỹ, anh ở đây hả?
Ignacio Cường sợ Cha Phó “đi lạc” nên đã bỏ công tìm kiếm người bạn đồng tu suốt một buổi chiều.
– Sao anh biết tôi ở đây?
– Tôi đâu có biết. Đang lúc rối trí thì có số máy lạ nhắn tin qua Viber báo rằng anh đang ở quán cơm chay “Liên Thành”, nên tôi mới chạy đại ra đây.
Thanh Liên tủm tỉm cười:
– Trì Thương thật là…
Stephen Đoàn ướm hỏi:
– Sao Thầy biết là Thầy Thảo?
Thanh Liên đọc bốn số cuối của số điện thoại.
Ignacio Cường mím môi xác nhận đúng.
Thanh Liên chắp tay mà ngỏ lời xin mẹ cho chú mượn điện thoại. Rồi chú bấm số gọi cho Trì Thương. Sư đồ của chú bắt máy liền, chú mới nói:
– Nè, nói nghe nè, can thiệp chi vậy?
Trì Thương trầm giọng nhắc nhở:
– Chuyện Đạo ai – Đạo nấy giải quyết, xin Trưởng Lão đừng lún sâu quá.
Thanh Liên cười hiền:
– Ờ, là lỗi của tôi.
Từ giã Thanh Liên, hai người Cha quản xứ trở về xóm Đạo.
Trên đường đi, Stephen Đoàn mời Ignacio Cường đi ăn cháo mực với bánh quẩy ở Chợ Lớn. Anh bạn đồng tu chịu liền.
Xe đẩy nằm khép nép ở hướng Đông khu chợ, do một ông Khách Gia đứng bán, thường ngày bán buôn lai rai chứ không đông khách hay có tiếng tăm gì.
Stephen Đoàn chỉ kêu một ly trà sâm, chứ không ăn gì nổi nữa.
Ignacio Cường thì húp lấy húp để tô cháo cỡ lớn có mực tươi, khô mực, tôm khô và huyết luộc, anh còn kêu thêm một dĩa dồi – lòng, một chén bún và một cặp bánh quẩy xắt sẵn để ăn kèm.
– Kiếm tôi có lâu không?
– Lâu. Muốn hết xăng luôn.
– Mà sao bữa nay anh ăn nhiều vậy?
Ignacio Cường che miệng nói trong lúc vẫn đang nhai đồ ăn:
– Mai tôi sẽ đi làm Lễ cho các tử tù ở Quận Nhứt.
– Anh đang buồn…
– Phải.
Rồi Ignacio Cường đổi đề tài:
– Anh có biết nhạc sĩ Phạm Duy viết bài “Tìm nhau” cho ai không?
– Ai?
– Không rõ nữa. Chỉ biết trong tờ nhạc, cụ đề là “Tặng nàng thơ”. Trong “Hồi ký Phạm Duy” cũng có nhắc tới bài này, nhưng cách trình bày của cụ làm tôi không hiểu ai là nàng thơ mà cụ nhắc đến hay “nàng thơ” chỉ là một danh từ chung chung thôi.
…
Thuật chuyện của hai người con đất Thần Kinh trong cùng ngày hôm ấy.
Sau khi từ giã hai cha con Công Giáo, hai người ngồi nhậu với nước tăng lực. Thứ Sáu tuần nào Kiến Tường và anh em đồng tu cũng trì chay, nên anh định bụng sẽ chiêu đãi anh họ món mỳ kéo tay kiểu Tứ Xuyên và súp nấm tùng nhung theo công thức của Nhật Bản, mong rằng Bảy Khanh và Mười Anh không bận việc riêng để phụ anh kéo mỳ và rửa tai nấm, giao cho mấy cha kia chẳng khác nào giao trứng cho ác, nhất là thằng chót Út An.
Kiến Hữu phân trần bữa đó bị chọt bụng đâm ra sợ cảnh sát hỏi cung lâu quá “đi xở” luôn nên đã vượt tường mà xin đi nhờ nhà vệ sinh của một quán cà-phê gần đó.
– Mi mần răng mà năng nao dữ rứa?
Phớt lờ câu hỏi của anh họ, Kiến Tường đưa cho ảnh một dĩa sụn gà rang muối ớt, đoạn mời:
– Địa của iêng đây.
– Hung rứa? Thôi, mi sớt bớt giùm, tau chỉ hảo ngọt thôi chứ nỏ có mê mấy món ni.
– Như ri mà iêng chê hung. Đân ngoẻn cho rồi, sớt tới sớt lui rớt mất công.
– Mi đúng là cái thằng “Thiên Lôi – Địa Tướng”.
– Mời iêng thời cơm.
Biết em họ nói xỏ mình, Kiến Hữu đánh trống lảng luôn:
– Cái đoại trẹt mô Tường?
– O… À, thím cho con xin cái chén đựng nước mắm.
Vợ chồng chủ quán ngó nhau cười lớn. Hai anh em này ở đâu ra mà coi ngộ ghê.
– Iêng thích đân ngoéo dữ rứa?
– Ngoéo ngon mà. Mi cũng đân cho lẹ đi. Răng mà ăn lâu lắc quá hè. Lắng hết thì mô còn ngon.
Vừa đặt cái chén không xuống, thím chủ quán vừa cười hỏi:
– Hai anh em nói gì vậy? Cho thím và chú biết được hôn?
Kiến Tường bèn phiên dịch:
– Giò heo ngon mà. Mày cũng ăn cho lẹ đi. Sao mà ăn lâu lắc quá vậy. Nguội hết thì đâu còn ngon.
– Trời!
Mùa Chay đã qua và Lễ Phục Sinh cũng đã được tổ chức xong, nhưng Mùa Phục Sinh hãy còn chưa kết thúc, do vậy ai nấy trong Hội Thánh đều được khuyên nên ráng ăn uống đạm bạc và thực hành thiện tâm cho đến hết Mùa. Thành ra mang tiếng đi nhậu nhưng chỉ có ba món nhắm là giò heo muối chiên giòn, sụn gà rang muối ớt và gỏi đu đủ khô bò, còn thức uống là nước tăng lực không đường.
Sau bữa nhậu, Kiến Tường rủ Kiến Hữu ghé vườn măng-cụt dưới Lái Thiêu chơi. Dù rằng lúc bấy giờ hoàng hôn sắp cập bến, song hai anh em vẫn háo hức đi. Chiếc xe Kymco của Đài Loan đưa hai người về vùng hiền hòa, xinh tươi ấy.
Vì đi giữa giờ “tan”, nên hai anh em lâm vào cảnh kẹt xe hoài. Cứ thoát được khúc này, lại bị đẩy vô khúc khác đứng như trời trồng. Cà-rề cà-rà đến năm giờ hơn mới lết tới Bình Dương. Vốn dĩ quãng đường khá ngắn mà do kẹt xe nên đâm ra mất nhiều thời gian so với trong dự tính của Kiến Tường, chàng Mục sư Thần Kinh hy vọng bận về sẽ đi mau hơn để không phải thấy sắc mặt như chim heo báo tang của bác Hai trai.
Nắng chiều hãy còn rực rỡ lắm. Mặt trời cũng còn neo mình lại ở phía Tây khung trời. Chưa thấy chim chóc hối nhau về tổ, chỉ thấy lác lác vài cụm mây ráng vàng trên nền trời xanh lam thơ mộng.
Men theo những lối mòn của miệt vườn trong lành, băng qua những cây cầu bê-tông mới coóng hay ván ép mỏng mảnh, hai anh em đã đến được vườn măng-cụt của gia đình Cơ Đốc Nhân ấy.
– Mục sư Tường, sao ghé chơi mà không báo cho gia đình thím một tiếng?
Năm Tường vừa cười vừa gật đầu chào thím Sáu. Rồi quay qua giới thiệu người anh họ bô trai với bà tín hữu.
Do đang bận nấu cơm – nấu nước nên thím Sáu nhờ con trai trưởng dẫn Mục sư và anh họ của Thầy đi thăm vườn, sẵn nếu thấy cây nào chín rồi thì hái trái xuống mời hai người ăn.
Trời đã nhá nhem tối. Quang cảnh tranh sáng tranh tối ấy đặt trong khu vườn măng-cụt này gợi cho hai người khách ghé chơi một cảm giác Liêu Trai quỷ dị khôn tả. Dường như trong tiếng lá cây xào xạc hay gió vờn qua cành – nhánh, có giọng ai đang hò buồn thật buồn:
“Hò ơi… Đường xa thăm thẳm ngàn trùng
Qua đi có nhớ quê nhà mình không?
Thương Qua, Bậu ráng mà chờ
Chờ Qua đã hết mười mùa nước dâng…”
– Rồi, con mẹ hàng xóm bí rồi.
Kiến Tường cười hỏi có chuyện chi mà người tín hữu phản ứng dữ vậy.
Anh ta trề môi đáp:
– Ở dưới Kiến Hòa có tổ chức cuộc thi hò đối đáp, bả ngày nào cũng xách micro ra sau hè luyện bài để thi. Tôi nghe riết muốn lủng lỗ tai luôn.
Bà hàng xóm yêu đờn ca tài tử lại lên giọng hò. Vẫn như ban nãy, tới câu cuối bà bí nên cứ “Ơ… ơ… ơ…” hoài mà chưa nghĩ ra câu hay để hát tiếp.
“… Nước dâng thì kệ mẹ nước dâng
Bà ca tới sáng, ổng cũng không có về… Hò ơ…”
– Tổ bà mày thằng quỷ ngựa!
Hai anh em Cố Đô vịn gốc cây măng-cụt mà cười ngất ngơ ngất ngưởng, sặc lên sặc xuống đau thắt ruột.
Bà hàng xóm lấy đà nhảy qua con mương phân ranh giữa hai khu đất, rồi một tay chống nạnh – một tay chỉ vô mặt người Cơ Đốc Nhân rắn mắt mà chửi xối xả. Hơi hám của bà sánh ngang với Thanh Kim Huệ và Lệ Thủy, phen này không có “cứu viện” thì khó lòng hai cái màng nhĩ của anh ta được nguyên.
– Gì đó? Chị làm gì chửi con tui dữ vậy? Nó có sai quấy chỗ nào thì…
Không để cho ba của anh ta nói hết, bà hàng xóm đã làm một tăng.
– Thôi mày xin lỗi chỉ một tiếng cho êm chuyện đi.
Biết ba mình không thể chống chọi nổi với tuyệt chiêu “Sư Tử Hống” của bà hàng xóm nên anh ta tủm tỉm cười và nói lời vuốt ngọt, không quên “gài” cái móc câu rằng nên giữ giọng cho cuộc thi sắp tới chứ đừng để phí phạm vô gia đình anh ta.
Sực nhớ đến cuộc thi hò đối đáp, bà hàng xóm mới xuôi xị mà ngúng nguẩy quay về.
– Lên sân khấu thì “Em hiền như Ma-Sơ”, xuống rồi… Ây da!
Vỗ đầu thằng con xong, ông ba mới chắp tay sau đ*t đi một hơi vô nhà.
Không hiểu sao tuy mặt trời đã lặn mà bầu trời vẫn còn ưng ửng sáng. Không gian lúc này giống hệt như lúc hừng đông, cũng màu trời khói xám lẻ loi vài gợn mây màu lông chuột và cái mùi hơi nước lành lạnh dễ gây sổ mũi ấy.
Anh ta khịt khịt mũi, rồi cười biểu:
– Sắp mưa lớn rồi. Gió này là gió báo mưa nè. Nhưng chưa đâu.
Vậy là ba người thong thả đi tiếp.
Sở đất hương hỏa rộng chừng ba mẫu mấy, vì bà con trong họ nghèo nhiều hơn giàu nên mỗi người chia nhau một khúm cất nhà, thành thử ra tuy rộng mà không sợ ma cỏ hay quỷ yêu gì hết. Ở bờ đất xấu nhứt, không trồng trọt hay đào móng xây nhà được, mọi người bèn lập khu nghĩa trang của gia tộc.
Nhác thấy mộ ông cố nội bị một cái cây dại đâm vô phần chân, anh ta bực mình giựt nó ra cái phựt. Bên dưới cái rễ dài ngoằng lủng lẳng những củ ngồ ngộ từa tựa trái ấu.
Tự nhiên Kiến Hữu nổi hứng hỏi:
– Đố anh trái Giáng Châu là trái chi?
– Đừng có nói trái này cũng do vua Gia Long đặt “nickname” nữa nha?
– Mô, tôi đố anh trái ni trong Nam và ngoài Bắc kêu mần răng?
– Mần thịt tôi luôn tôi còn hổng biết chứ ở đó mà mần răng.
– Trái măng cụt đó anh.
– Trời ơi, vậy mốt tôi sẽ biểu má tôi sửa “Vườn Măng Cụt” thành “Vườn Giáng Châu” cho nó sang.
– Rồi mày ăn dọng hết nguyên cái vườn này nghe con? – Má của anh ta đứng ở bậc tam cấp của khu nhà mồ mà chửi vọng ra.
Anh ta le lưỡi làm xấu, rồi cười với hai anh em mà nói rằng:
– Trái vải thì kêu “Lệ Chi”, bòn-bon thì kêu “Nam Trân”, măng cụt thì kêu “Giáng Châu”, mù-u thì kêu “Nam Mai”, nha đam thì kêu “Lô Hội”, nhãn lồng thì kêu “Lạc Tiên”,…
Kiến Tường bổ sung:
– Còn nữa, sầu riêng thì kêu “Lưu Liên”…
Con trai trưởng có người tới kiếm nên thím Sáu phải thay nó làm hướng dẫn viên.
Hai anh em theo bước chân của thím Sáu mà đi thăm phần đất còn lại của vườn măng cụt.
Dưới sự giới thiệu của thím Sáu, hai anh em được biết những cây măng cụt ở khoảnh đất cuối vườn này đã đã được tám mươi năm; có cây phải bốn người ôm mới xuể. Thím Sáu đố hai anh em cây nào ở đây cho trái nhiều nhứt. Ai nấy đều đinh ninh cây nào lớn nhứt thì cho ra nhiều trái nhứt; song thím Sáu cười ngất, rồi chỉ vô cái cây gầy gò mà tán lá rất rộng dị kỳ và kêu, “Nó đó.”
Vừa vịn tay lên cái cây “mắn đẻ”, Kiến Hữu vừa nhìn lên vòm cây lúc thúc trái mà hỏi:
– Có măng cụt chín chưa o?
Thím Sáu cười ngất:
– Có, mà đầu mùa nên chua lắm. Con ráng đợi tới tháng Sáu ăn mới ngọt ngon.
– Không sao đâu thím. Ảnh ăn ngọt quá rồi, ăn chua cho cân bằng lại.
Thím Sáu cũng không từ chối, liền lấy sào hái xuống cho Mục sư và anh của Thầy một rổ măng cụt chín hườm. Mỗi trái không lớn lắm, chỉ nhỉnh hơn nắm tay em bé một chút, hương thơm tỏa ra dìu dịu và dễ thương hơn lê-ki-ma nhiều.
Trước lúc lên nhà trên bàn chuyện mối mai với thương lái, thím Sáu vô nhà sau lấy con dao Thái Lan và hũ muối tôm Tây Ninh đưa cho hai anh em họ Võ. Vào đến nơi rồi, bà lại sực nhớ nãy giờ chưa cho khách uống miếng nước nôi nào, nên lật đật mở tủ lạnh lấy ra hai chai nước mía lau mua ở hàng quen ngoài chợ đem đi đãi khách.
Hai anh em ngồi hứng mát từ những bóng cây măng-cụt sum sê và già tuổi. Măng-cụt hãy còn nhiều nhưng không ai cầm dao xẻ ăn vì nó chua vô hậu. Riêng dĩa muối tôm thì gần hết do Kiến Hữu chấm ăn hoài để giã chất chua đằng lưỡi và răng của anh.
– Răng mi buồn rứa?
Kiến Tường thật thà kể chuyện Mười Anh bị nhóm ký giả quấy rầy và đơm đặt đủ chuyện. Bây giờ có khứa còn khơi gợi sự khác biệt giữa Tin Lành và Công Giáo để kiếm người vào xem để tăng tiền quảng cáo.
– Ôi… Cái đám thúi máu nớ mắc giống chi mi phải nhọc lòng.
– Răng mà nỏ để tâm hả iêng?
Chừng như sợ anh họ buồn lây nên Kiến Tường rủ anh đi ăn đồ ngọt.
Kiến Hữu vỗ bụng mà nói:
– Mi coi ni, thỉnh bụng cóc rồi.
Kiến Tường đùa:
– Hay là iêng muốn bảo vệ “hàng tiền đạo”?
– Răng tau chưa bị siết…
– … Mà bị “sụt chịt” thôi phải không?
Xui rủi sao mưa dông kéo đến. Bầu trời tối đen như mực. Sét liên tục bủa những tia lửa điện ở góc trời Tây, lúc màu này – lúc màu khác. Đôi lúc chớp và sấm mới dự phần, những lúc đó bầu trời rực sáng lên một chốc rồi a thần phù “Đùng” một tiếng vang rền như muốn xé toang vòm trời tăm tối.
Hai anh em hớt hải chạy vô hàng ba đụt mưa. Nhưng đứng chưa yên thân được bao lâu đã được anh chàng Cơ Đốc Nhân kéo vào nhà sau ngồi chơi.
Dù đã ráng hết sức khước từ, nhưng hai anh em vẫn phải vô bàn ngồi ăn vị bụng một chén cơm. Bữa cơm có món cá nâu chiên tươi, nấm bào ngư xào muối ớt với thịt bò, thịt kho tàu, nghêu kho sả – ớt và canh chua bạc hà, bắp chuối, cà chua, kèo nèo, đậu bắp, ngò gai, khóm và giá.
Chừng khoảng chín giờ rưỡi, hai người mới lót tót về nhà.
“Chim heo” đang ngồi chình ình coi livestream tin tức ở phòng khách, nhìn khuôn mặt dễ ưa hết sức. Hai anh em cười hí hí với nhau, rồi lợi dụng mưa dầm rớt hột trên ngọn cây tán lá mà len lén dắt xe xuống nhà trọ của Kiến Tường một nước.
Đến lúc hai anh em Thần Kinh đi mất tiêu rồi, bác Hai trai mới giựt mình hỏi ông Sáu Giàu:
– Ủa? Hình như cậu Hữu với cậu Tường mới về hả ba? Con nghe có tiếng xe gắn máy “cày” trên nền đất.
– Ừ, mặt mày thấy thương quá nên tụi nó lủi xuống nhà riêng luôn rồi.
Bác Hai trai chiêm biểm ngó cha, rồi đeo tai nghe lên nghe tin tức tiếp.
Về phần hai anh em Năm Tường, họ đang có mặt trên căn gác chật chội nhưng sạch sẽ và thơm phức.
– Iêng thấy Ba Đức không được…
– Xuất thân của Ba Đức là thành viên của một gia đình “có máu mặt” mà. Rồi, đứa nào tắm trước đây?
Kiến Hữu ngồi phịch xuống ghế, rồi vừa mở điện thoại vừa nói:
– Mi đi. Tau phải soát điện thư.
– Mà, ở Huế iêng làm nghề gì?
– Hướng dẫn viên du lịch, cò đất và… freelancer.
– Tức là làm trên máy tính?
– Ừ. Thành ra không bị gò bó giờ giấc. Muốn đi mô thì đi, nỏ phải dòm ngó hay xin phép ai.
– Thôi, yêm vô nhà tắm đây.
Kiến Hữu khoát tay “vời” em trai đi. Liền sau đó, cúi đầu xuống soát điện thư. Anh đã sưu tầm được rất nhiều hình ảnh đẹp và tài liệu hay về thành đô, rất hữu ích cho công việc freelancer của anh.
Vừa soạn đồ đi tắm, Kiến Hữu vừa hỏi:
– Có biết tại sao họ bị gọi là “Quân Cảnh” không?
– Răng?
– Bởi vì nếu phát hiện kẻ gian trà trộn trong Giáo xứ, họ không được phép sử dụng vũ lực tới khứa đó và phải báo cho hai ông Cha, Thầy Phó Tế và Cố Toàn biết. Cho nên ai cũng ghẹo họ là quân đứng làm cảnh chứ chẳng có oai nghiêm gì.
– Răng mà nỏ có oai nghiêm, nom mặt đứa nào đứa nấy lầm lì a rứa thê.
– “Quân Cảnh” mà lị.
– Đáng ra phải để bác Hai trai trực mì đúng. Nỏ có quân gian nào dám vô đay mô.
Nói tới đó, hai anh em nhìn nhau cười hí hí, trông gian ơi là gian ơi.
Chẳng có ma nào gởi thư mới cho Kiến Hữu, nên chàng trai Cố Đô bèn mở sách “Địa ngục có thật”, một tùy bút về thảm sát Tết Mậu Thân do nhà văn Dương Nghiễm Mậu chấp bút, ra đọc.
Đọc vừa hết chương đầu thì Kiến Tường tắm xong. Em họ của Kiến Hữu chỉ mặc độc cái quần đùi, vai trái vắt cái khăn tắm ướt nhẹp, mái tóc thơm phức mùi dầu gội và dầu xả hương bạc hà hòa trộn với lá trà xanh. Bây giờ Kiến Hữu mới thấy em của anh gầy gò và tiều tụy ra sao, suốt ngày đi canh chừng và lo cho cha mạ bá tánh không kịp thở, tối thứ Năm và Chúa Nhựt lại phải tổ chức Lễ Thờ Phượng và truyền giảng Kinh Thánh, nó còn đâu thời giờ để nghỉ ngơi và vui chơi.
Sực nhớ một bài hát về Cố Đô thật hay, Kiến Tường mời anh họ nghe ca khúc “Mơ về sông Hương” của nhạc sĩ Ngọc Bích qua phần trình bày của “Tiếng hát liêu trai” Thanh Thúy.
– Mạ tau gởi bánh tày vô cho mi ăn để đỡ nhớ Tết Thần Kinh.
– Dạ, miền Nam ăn bánh tét, miền Trung ăn bánh tày, còn miền Bắc ăn bánh chưng. Bánh tày cũng hao hao bánh tét, nhưng hương vị thì không giống nhau lắm.
– Răng mà y thinh được? Mỗi miền có khẩu vị và cách nêm nếm với bỏ nguyên liệu riêng, nên mỗi món bánh chắc chắn sẽ cho ra hương vị khác nhau.
Kiến Tường lắc đầu cười xòa.
– Mà, tiền điện ai đóng?
– Yêm.
– Rứa thì tau coi tiếp.
Kiến Tường lại được phen cười ngặt nghẽo.
– Mà ni. – Nói tới đây, Kiến Hữu chống cằm nhìn em trai.
– Hửm?
– Mốt xuống Sóc Trăng với tau hí.
– Kiếm bánh pía phải không?
Kiến Hữu cười bẽn lẽn:
– Biết mà còn bày đặt hỏi nữa.
…
Trời đã sáng bảnh mắt mà hai anh em mới thức dậy nổi. Bữa nay Năm Tường không ghé nhà thờ giúp Lễ với các anh em Tin Lành do bận tổ chức sinh nhật cho ba người cao niên trong viện dưỡng lão.
Thể theo lời giới thiệu của em họ, Kiến Hữu ghé quán cà-phê “Sóng Nhạc” để uống thử món cà-phê trứ danh của quán.
Đây là lần đầu tiên anh ghé quán. Nhưng hơi thất vọng chút xíu vì dù chủ quán đã cố gắng trang hoàng cho giống với Sài Gòn xưa rất nhiều, song anh ta vẫn không thể xây dựng được bầu không khí của thời đại ấy.
Vừa với tay lấy tờ báo, Kiến Hữu vừa hỏi ông bác bàn bên rằng bài hát đang phát trong quán tên gì.
– “Quê Hương bốn mùa” do song ca Nhật Trường – Thanh Tuyền trình bày; một sáng tác của nhạc sĩ Giao Tiên, nhưng trong bài này ông lấy tên thật là Dương Trung làm bút hiệu.
Nói lời cảm ơn với ông bác sành nhạc Vàng xong, Kiến Hữu lại quầy yêu cầu một bài hát về Huế.
– Được. “Cô nữ sinh Đồng Khánh” của nhạc sĩ Thu Hồ, sẽ do “Cô gái Huế” Hà Thanh biểu diễn.
Rồi Thừa Tân quay sang nhắc Quỳnh Như mau ăn gỏi cuốn cho lẹ để còn về nhà kẻo mẹ chờ mong.
Vừa che miệng nhai gỏi cuốn, Quỳnh Như vừa thúc giục:
– Trả lời đi chú.
– Lý Nhược Đồng thủ vai Tiểu Long Nữ là hợp nhất.
– Tại sao?
– Không phải trong nguyên tác, Cô Long lớn tuổi hơn Quá Nhi sao? Vả chăng, khuôn mặt có chút già dặn của cô Đồng rất hợp để thể hiện hoàn cảnh của Cô Long. Chẳng có ai sống trong giang hồ mà gương mặt trẻ măng, non choẹt hay búng ra sữa; cuộc đời của họ có êm đềm đâu mà tìm diễn viên có những đặc điểm kể trên chứ? Thành ra, ai chê cô Đồng mặt mày già chát thì đó là quan điểm riêng của họ; còn tôi, tôi lại thấy cô Đồng vô cùng hợp vai.
– Nhưng không phải Cô Long sống trong Cổ Mộ sao?
– Sống trong Cổ Mộ, đúng, và cái hoàn cảnh sống đâu có giống như trong Dòng tu.
– Tại chú thích nên nói sao cũng được.
Biết mình không hùa theo ý của nhỏ nên nhỏ nói lẫy, Thừa Tân bèn đổi đề tài:
– Xứ mình có cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp “Tuyết đen” của nữ tác giả Giao Chi cũng hay và đặc sắc lắm. Cổ hứa hẹn sẽ viết phần Hai mà đã gần mười mấy năm rồi chưa thấy đâu hết.
– Kết sao chú?
– Nam – Nữ chính xa nhau.
Quỳnh Như tròn mắt lóng tai nghe.
– Vì cơ thể nam chính toàn là độc dược nên nếu anh ta muốn giết người thì chỉ cần chạm tay trần vào người đó là họ sẽ sẽ chết tức thì, cho nên sau khi giúp nữ chính giải được độc dược của mình thì hai người phải cắt đứt liên lạc để bảo toàn tính mạng cho nữ chính và gia đình cô.
“Xuân, Hạ, Thu, Đông
Bốn mùa luân chuyển
Nếu huynh là tuyết
Muội sẽ giữ mùa Đông
Chuyện kể rằng một cô gái vì trót yêu tuyết nên đã giữ lại mùa Đông…”
Suốt ngày nam chính chỉ mặc đồ đen che kín hết cơ thể để không giết oan người vô tội. Do có viên Phong Vũ Châu trong người nên lúc nào cũng có bụi tuyết đen bay lất phất xung quanh mình, thành ra dầu mặc đồ kín cỡ nào cũng hổng bị nực.
Quỳnh Như phá lên cười thích thú:
– Nội dung cũng sáng tạo quá chứ?
– Ừ, có khi sang Tàu, Hồng Kông hay Đài Loan đã được dựng thành phim. Tuy còn nhiều lỗ hổng về mặt logic, nhưng viết được như vầy cũng khá quá rồi.
– Có tình tiết nào cảm động không chú?
– Lúc mẹ của nam chính nhận ra đây là đứa con trai đã bị bắt cóc hồi nhỏ, bà chạy lại và la lên, “Phong nhi, con trai của ta… Mẹ nè con…” Nam chính đã lùi về sau và lắc đầu lia lịa mà nói, “Không, bà nhận lầm người rồi, tôi không phải là Bạch Phong…” “Vậy sao con lại biết con trai ta họ Bạch tên Phong?” Nam chính không dám nhận lại mẹ và gia đình vì sợ rằng chất độc trên người mình sẽ giết chết người thân của chàng. Những chương sau, nam chính âm thầm đi theo bảo vệ mẹ chàng, và chỉ có thể đứng nhìn bà từ rất xa; nhưng bà vẫn cảm nhận được sự hiện hữu của chàng nên luôn nói với mọi người rằng, “Ta biết nó đang ở đây. Phong nhi của ta đang ở đây…”
Đối với chàng, Bạch Phong lương thiện, hiền lành đã chết rồi. Bây giờ chỉ còn Vạn Độc Vương giết người không gớm tay bị thế gian xa lánh, ghê sợ và khinh bỉ.
Bài hát mà người khách nói giọng Huế yêu cầu đã hết, Thừa Tân cúi mặt coi những dĩa hát đã soạn sẵn đêm hôm trước để phát cho khách nghe. Anh hãy còn lưỡng lự không biết nên chọn bài nào cho hay. Quỳnh Như vẫn đang “gặm” cái gỏi cuốn, cái kiểu ăn câu giờ đầy trẻ con đã làm anh cười hoài.
Trong lúc mở bài hát “Trăng soi duyên lành” của nhạc sĩ Trịnh Hưng qua phần song ca của Duy Khánh – Hương Lan, Thừa Tân nói:
– Ai nấy cũng mong rằng phần Hai, nữ chính sẽ tìm cách giúp nam chính giải độc và trở lại là công tử Bạch Phong ngày xưa. Mười mấy năm rồi mà tác giả chưa viết ra phần Hai như đã hứa hẹn.
Chừng ngẩng mặt lên, mới thấy Quỳnh Như đang u sầu. Thừa Tân đưa khăn giấy và hỏi nhỏ:
– Sao em buồn?
Quỳnh Như lau nước mắt, rồi rưng rưng lệ mà nói:
– Viết tiểu thuyết kiếm hiệp như vậy cũng quá giỏi rồi. Đề tài này đàn ông thường trội hơn là phái nữ.
– Ừ.
– Chú thấy có bài hát nào hợp với nội dung của cuốn tiểu thuyết trên không?
Nghe vậy, Thừa Tân bèn giới thiệu tình khúc “Bài không tên số Một” của nhạc sĩ Vũ Thành An qua phần trình bày của Duy Quang. Đang hăng say kể, chợt thấy “giọt sương trên mí mắt” của cô nữ sinh có mái tóc demi-garcon, anh thở dài mà nói:
– Khóc rồi.
– Chú.
– Sao?
Quỳnh Như lúc lắc đầu.
– Thôi, không muốn thì thôi. Đừng nói. Có nhiều chuyện không nói ra sẽ dễ chịu hơn.
– Dạ.
Nói rồi, Quỳnh Như cất hộp gỏi cuốn và hũ tương đậu vào cái bịch nylon.
Sợ con nhỏ làm đổ ra rồi dơ hết cặp sách và tà áo dài, Thừa Tân cho hai cái bịch nylon nữa.
Một người khách cắc cớ hỏi:
– Có bài nào vừa viết về Sài Gòn vừa viết về Hà Nội không anh?
– Có. “Sài Gòn – Hà Nội, Quê Hương ta” của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết, do tam ca Thái Châu – Thanh Lan – Elvis Phương biểu diễn. Anh muốn nghe không?
Người khách đó cười tươi mà nhún vai từ chối, rồi yêu cầu một bản nhạc nào có cái tựa lạ thiệt lạ.
– Có liền. “Tiếng khóc trong phòng the” của nhạc sĩ Thẩm Oánh, người trình bày là Thanh Thúy.
Đã được vừa ý, người khách đó bèn trở lại chỗ ngồi của mình mà uống nước và chuyện gẫu với bạn bè tiếp.
Thấy anh chủ quán không còn vướng bận nữa, Kiến Hữu mới men men lại nói chuyện.
– Anh đợi tôi có lâu không?
Kiến Hữu cười hỏi:
– Răng anh hỏi rứa?
Thừa Tân vừa xịt nước lau kiếng lên mặt bàn ở chỗ Quỳnh Như vừa ăn uống, vừa nhếch miệng cười:
– Hồi nớ, ở kẹ.
Kiến Hữu thôi tươi cười, anh lạnh giọng hỏi:
– Khi mô hí?
Vừa hay một người khách tới yêu cầu một bài hát do một giọng nữ cao trình diễn, nên Thừa Tân lảng tránh được câu trả lời với “người muôn năm cũ” ấy. Anh chủ quán giới thiệu:
– “Tiếng hát thính phòng” Kim Tước, một trong những loài chim của dòng Tân Nhạc trước năm 75.
Người khách đó biểu:
– Yến Vĩ, Phượng Mai,…
Một người khách khác xen vào:
– Còn Kim Loan nữa mà.
Thừa Tân lắc đầu:
– Kim Loan thiên về nghiệp diễn hơn nghiệp hát nên tôi không xếp bà vô nhóm ca sĩ mang nghệ danh hay biệt danh liên quan tới loài chim.
Nói xong, Thừa Tân mở ca khúc “Chiều bên Giáo đường” của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn do Kim Tước trình bày. Không quên nói:
– Đây chưa phải là bài hát phô diễn hết nét đẹp và thanh âm thánh thót của bà, nhưng vì nội dung rất hay nên tôi ưu tiên phát trước.
– Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.
Song Thừa Tân phớt lờ lời nhắc của người khách nói giọng Huế chay. Anh đi một hơi xuống nhà sau lấy thêm bao nước đá. “Vô Duyên” thì nên “Bất Tương Phùng”.
oOo
Nơi Thất Sơn huyền nhiệm, Thanh Liên dạy các đồ đệ tụ hội lại trong rừng cây thốt nốt để thông tin cho họ hay một việc hết sức hệ trọng.
Đợi ai nấy ngồi xếp bằng ngay ngắn, Thanh Liên mới lên tiếng:
– Đúng tháng Phật Đản mà bên Mỹ lại có hiện tượng nguyệt thực, trăng rằm bỗng hóa thành trăng khuyết, mây trắng giăng đầy màn đêm. Còn bên Việt Nam, nhật thực xảy đến, thiên hôn địa ám u u mờ mờ.
Trì Thương đã đoán trước được nên không lấy gì làm bất ngờ. Chú cau mày ngẫm tới những việc sẽ xảy ra trong tương lai.
– Ráng sống theo lời nhắn của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Tới lúc rồi.
oOo
Nơi quán hủ tíu miệt vườn nhà cô Xuân, bài hát “Tình ca trên lúa” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ do song ca Duy Khánh – Thanh Tuyền trình bày vang lên với những giai điệu thật dễ thương.
– Xuân uống thuốc đầy đủ không?
– Dạ đủ.
– Lúa sao gặt trễ dữ vậy?
– Lúa lỡ thì nên vậy đó.
– À…
– Anh ăn gì hôn?
Stephen Đoàn gật đầu với một nụ cười nhẹ trên môi.
Matthias Hoàn đi cùng con trai xuống đây coi mặt cô gái thương con mình.
Thím Năm bưng dĩa bánh lá mít đã chan sẵn nước cốt dừa có rắc đậu phộng rang giã nhuyễn lên mời hai cha con.
Matthias Hoàn trầm trồ:
– Chắc hai má-con con làm cực lắm hả? Quết từng cái lá mà…
– Con không chồng không con nên quởn lắm. Lại thêm bị thần kinh nặng nên thích xuống bếp nấu món này – chế món kia cho bớt khùng.
Stephen Đoàn không ăn bánh, mà ngồi đó hát cho Xuân nghe bài “Từ một giấc mơ” của nhạc sĩ Mai Anh Việt mà Xuân đã từng nghe qua giọng ca của Duy Trác.
Xuân chỉ mỉm miệng cười, rồi cúi đầu mân mê vạt áo. Đợi cho tiếng hát của anh Mỹ lắng xuống, cô mới thỏ thẻ:
– Anh Thạnh mới ghé nhà em ăn hủ tíu. Hình như ảnh mới đi bỏ mối rau cho quán nào đó thì phải? Coi bộ rủng rỉnh túi lắm.
– Vậy lát Cha phải bắt nó mừng tuổi mới được.
– Sau này tía má em về trời hết, nếu được em sẽ xuất gia hoặc tu tại gia, đời em lỡ Duyên nhiều rồi nên hổng còn ham muốn chồng con hay giàu sang gì nữa.
Thím Năm bỗng sửng sốt kêu lên:
– Ủa, Mỹ, sao con hổng ăn bánh đi?
– Ảnh ghét ăn đồ ngọt má à. Tự nhiên bưng ra làm khó người ta hà.
– Í, vậy ăn hủ tíu, bánh canh, bột nui, mỳ hay bún, nói cho thím nghe đi con?
Bất đắc dĩ, Stephen Đoàn phải chọn món bột nui thập cẩm để làm đẹp lòng thím.
– Còn anh đây ăn chi, tui làm luôn?
Matthias Hoàn nói muốn ăn hủ tíu – mỳ sườn, hoành thánh, chả quế, trứng cút, dồi và lòng heo. Đương nhiên ông sẽ trả tiền sau khi ăn chứ không để vợ chồng chú Năm bị thiệt.
Đang ngồi ăn dở tô hủ tíu – mỳ, Matthias Hoàn nhác thấy bóng dáng của ai sao mà du côn quá, quen quá xá quen.
– Mỹ, con.
– Dạ?
– Ông nào trạc trạc tuổi Cha mà sao mặt mày coi “Lân – Sư – Rồng” quá… Kìa con, sao con sặc vậy?
Cô Xuân cũng ôm bụng cười ngặt nghẽo, rồi vừa gạt nước mắt vừa run giọng trả lời:
– Cha Augustino Dương.
Augustino Dương không mảy may hay biết xíu xiu gì. Ông cười biểu thím Năm làm cho mình một tô hủ tíu – mỳ giống y chang của người đàn anh lớp trên.
– Sao cậu xuống đây?
– Em qua Giáo xứ St. Pio ăn cơm trưa, hổng thấy thằng Mỹ đâu nên xuống đây kiếm nó.
Rồi Augustino Dương nói kháy:
– Năm xưa ông đồng lõa với tui, giờ đồng lõa với thằng Mỹ.
Matthias Hoàn hất cằm, trong khi vẫn nhai đồ ăn:
– Con tôi, tôi lo. Cậu lo cho thằng Thạnh đi.
Sau bữa ăn, ba người Linh mục thuộc hai thế hệ khác nhau từ giã gia đình cô Xuân mà lên taxi về nhà Henrico Thạnh. Matthias Hoàn và Stephen Đoàn ngồi ở băng sau, còn Augustino Dương lên ghế phụ ngồi.
– Sao hồi nãy con hát tình ca mà Cha không la rầy con?
Matthias Hoàn vỗ vai con trai mà hiền từ đáp:
– Cha biết con muốn giúp cô Xuân bình tĩnh.
– Cha nghĩ sao về con và cổ?
– Con không hề yêu Xuân như con đã lầm tưởng, và khiến Cha với thằng này lầm tưởng lây.
Augustino Dương tin vào con mắt tinh đời của người đàn anh nên cảm thấy bớt lo lo một chút. Ông cao hứng biểu tài-xế mở bài nào vui vui cho ông với hai người kia nghe.
Sẵn đang qua cầu, tài-xế bèn chọn bài “Tiếng dân chài” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương do Hùng Cường và ban “Tam ca Sao Băng” biểu diễn.
Cái tỉnh lỵ này vốn có chút xíu, lại thêm đường sá rộng rãi và ít bị kẹt xe, nên chiếc taxi chạy chưa nóng máy mà đã đến nơi rất mau. Tuy vậy vì xăng tăng giá ngất ngưỡng nên tiền cước không giảm đi được là bao nhiêu.
Thấy ánh mắt trông đợi của cậu tài-xế thất nghiệp nên đi lái taxi đỡ đần gia đình, Augustino Dương cho tiền boa bằng phân nửa tiền cước xe. Cậu ta rối rít cảm ơn ông, rồi cho số điện thoại với lời dặn, “Hai ông với anh đây có đi đâu thì kêu con chở đi giùm nha.” Cái giọng miền Tây không “ấm như cái lò sưởi” hay “lên bổng xuống trầm – có vần có điệu” như xứ khác, nó chan chứa cái gì đó khiến ông phải thương và tin vào nhân cách của cậu ta; chắc có lẽ đó là sự bải buôi và huỵch toẹt, chẳng làm ông phải vắt óc suy nghĩ nghĩa đen – nghĩa bóng hay cân đo đong đếm bao nhiêu Thực – Hư trong lời ăn tiếng nói.
Từ giã cậu tài-xế học cao mà phải làm trái nghề, ba người lội bộ vô nhà Henrico Thạnh.
Miệt vườn về đêm buồn thê lương. Chỉ có âm thanh của họ nhà lưỡng cư và dế. Xa xa, lâu thật lâu vẳng tới tiếng cót két của một chiếc xe đạp hay tiếng máy nổ của một chiếc xe gắn máy. Hai bên đường, nhà nào có bàn thờ Thiên đều thoang thoảng hương nhang trầm. Ngang qua một ngôi nhà có cây sứ trắng, mùi thơm thanh khiết dịu dàng của giống hoa đã níu chân ba người khách phương xa, nhưng họ chẳng thể nán lại thưởng lãm lâu vì bầy chó lao ra sủa inh ỏi. Ai nấy nhìn nhau cười ngất, rồi thung dung đi tiếp. Đôi lúc hai ông Cha già cỗi xém té dập mỏ vì cái ổ gà, những lúc đó ông Cha trung niên mau lẹ vươn tay giữ lại nên không có ông nào bị trầy vi tróc vảy.
Henrico Thạnh đang sửa lại cái chuồng gà, nghe thấy tiếng kêu í ới ngoài hàng rào thì biết Cha Dương đã về. Nhưng anh không ngờ Cha còn đem theo Cha Hoàn và Stephen Đoàn.
– Ủa? Anh Mỹ, Thầy đây là…
Matthias Hoàn cười tươi giới thiệu:
– Cha không dạy lớp con nên con không nhớ. Cha dạy môn Toán, tên đầy đủ là Matthias – Tô Vĩnh Hoàn.
– À…
Hỏi han thêm vài câu nữa, Henrico Thạnh mời ba người vô nhà tắm rửa, thay đồ rồi ra đây ngồi nói chuyện chơi với mình. Mới vừa dứt câu, anh đã leo lên chõng tre bắc lại cái bóng đèn khác thay cho bóng đèn bị đứt hôm hổm, rồi đốt hai khoanh nhang muỗi và để chúng ở dưới chõng tre.
Nhưng cái lưng của Augustino Dương lại trở chứng nên cuộc vui đành hoãn lại. Henrico Thạnh tiếc nuối tắt đèn rồi vô nhà sửa soạn chỗ ngủ cho hai Thầy và Stephen Đoàn.
…
– Em trai của Thầy bị quai bị nên có nguy cơ bị vô sinh rất cao. Thành ra, lúc mà Thầy bày tỏ mong muốn đi tu, cha Thầy đã xán cho Thầy hai bạt tai vì tội bất hiếu, rồi tức tưởi khóc mà kể lể rằng, “Mày mà đi tu thì cái nhà này tuyệt tự.”
Giữa Chúa và bản thân, con người thường vì mình hơn là vì Chúa.
Matthias Hoàn giờ mới hiểu tại sao thằng em là Đạo gốc mà gia đình lại phản đối nó đi làm tu sĩ.
Henrico Thạnh hỏi dồn:
– Rồi sao nữa Thầy?
– Thằng em của Thầy có năm đứa con: Ba trai, hai gái.
Matthias Hoàn bật cười:
– Đúng là phép màu của Chúa.
Lúc mọi người đang ngồi hàn huyên tâm sự với nhau là khoảng xế trưa, lối chừng hai giờ chiều, trên trời trong vắt không một gợn mây, nắng nóng như đổ lửa, và trên những nhành cây – tán lá ve sầu kêu râm ran nghe sao thật buồn.
Henrico Thạnh bưng rổ mộng dừa đầy vung ra đãi Thầy và người bạn đồng tu, không quên vui miệng kể:
– Hồi xưa đi học, hễ nhỏ nào tên Mộng là bị kêu “Mộng Dừa”, còn thằng nào tên Đức thì coi như là thúi rình luôn.
Augustino Dương vừa nói vừa bốc một miếng mộng dừa giòn rụm, ngọt thanh:
– Mà phải công nhận, tiếng Việt dễ nói lái nên bạ đâu cũng bị lôi tên ra bẹo gan.
Henrico Thạnh vỗ ngực khoe:
– Có tên con là tụi nó hổng chọc được.
Matthias Hoàn hỏi:
– Nếu như Giáo xứ Cây Bần không được thành lập, con có buồn không Thạnh?
Henrico Thạnh cười rộ lên:
– Dạ không. Mọi sự là do Thánh Ý của Chúa, nên con sẽ không thất vọng hay đau buồn.
Rồi Henrico Thạnh rủ hai Thầy và anh bạn đi lượm hột gà, hột vịt và trứng cút.
Việc này cũng na ná trò chơi lượm trứng dành cho thiếu nhi trong ngày Lễ Phục Sinh, nên ba người Linh mục thành đô hết sức phấn khởi và hào hứng. Mỗi người được cấp cho một cái rổ nhựa khác nhau, đặng thi coi ai lượm trứng nhiều nhứt.
Dưới bóng mát của những vòm cây ăn trái xanh rì, bốn người đàn ông khác tuổi bỗng chốc trở lại thời thơ ấu. Bao nhiêu phiền muộn và u sầu của cõi người lớn cứ thế vút bay theo những bước chân hồn nhiên như trẻ dại.
Đàn gà, đàn vịt hay đàn cút đều đẻ bậy, bạ đâu ra đó, nên nếu không để ý rất dễ đạp lên những quả trứng nằm lẫn trong cỏ dại, dưới bụi hoa hay thậm chí là gần hàng rào. Thành ra dù có tới bốn người đi lượm song trứng vẫn còn sót rất nhiều.
Augustino Dương bỗng ngồi thụp xuống, tay trái vòng ra sau lưng và vịn lên đó. Không biết ông có bị gai cột sống hay thoái hóa đốt sống không mà sao độ rày lưng dễ đau quá. Đâu có làm gì nặng đâu.
– Thầy!
– Nắng quá mắt quáng gà, tưởng ̣đâu hột gà ai dè cục đá.
Henrico Thạnh nhìn Thầy đầy ngao ngán. Nhưng anh không đả động gì tới lời nói dối của Thầy, mà lại nói lảng:
– Lát con cho hai Thầy với ông Mỹ ăn dừa sáp.
Augustino Dương nhân đó pha lửng:
– Mày tính cho tao vô Đạo Dừa hay gì mậy?
– Hì, thì xuống đây phải vô “Đạo” chớ?
– Mà món gì?
– Dừa sáp dầm sữa đá.
– Món gì mà nghe “Tào Tháo rượt” dữ?
– Đâu, ngon dữ lắm, ăn một lần ghiền luôn.
– Nhớ mày nói nhe? Tao ăn một lần mà tởn luôn là mày tới số với tao.
Stephen Đoàn cười gượng:
– Thôi cho tôi xin kiếu, lần trước giữ cầu là đủ sợ rồi.
Henrico Thạnh chép miệng:
– Kệ, ăn quợt, xổ độc nhiều, càng tốt chớ sao.
Matthias Hoàn tếu táo:
– Có phước cùng hưởng, có “cầu” cùng chia.
Augustino Dương cự:
– Lúc đó giành nhau chứ mà chia khỉ gì?
– Con còn hai cây cầu tiêu cá, có gì ra đó ngồi, có chi mô mà sợ?
– Xa hôn?
– Gần xịch hà.
– Tao mà “đi” luôn là mày chết với tao à?
– Hăm con hoài hà.
Bàn tới bàn lui một hồi thì cái món dừa sáp dầm sữa đá bị “đình chỉ”, thay vào đó là món dừa sáp ăn tươi với chút đường mía Biên Hòa. Ai ăn cũng tấm tắc khen ngon và lạ miệng.
Vừa hay có bà bán bánh dạo quảy gánh ngang qua sau hè, Henrico Thạnh nhìn mặt bà là nhớ liền bà bán món gì nên đứng dậy bắc tay làm loa gọi với:
– Bánh chuối chan nước cốt dừa! Cho con bốn dĩa đi thím Chín!
– Ờ, nghe rồi!
Augustino Dương vỗ lưng thằng con tên Thạnh:
– Ê, tao phát hiện âm mưu thâm độc của mày rồi nghen con? Hết cho tao ăn dừa rồi qua chuối, muốn “hủy dung” tao hay gì?
– Rồi ăn hôn?
– Ăn.
– Dễ nuôi ghê.
Stephen Đoàn phụ Henrico Thạnh bưng dĩa bánh chuối, chàng Linh mục xứ thanh trà đòi trả tiền giùm mà chàng Linh mục xứ dừa không chịu, dằng dai một hồi cả hai quyết định “cưa hai” cho xong chuyện.
Lúc này trời nắng gắt khôn tả. Ngồi trong bóng mát của hàng ba mà tưởng đâu ở trong nồi nước sôi đang hừng hực cháy trên bếp củi. Ba cây quạt quay hết cỡ mà vẫn không đủ xua bớt bầu không khí oi bức đặc trưng của ngày Hè.
Tiếng hát của Thanh Tuyền trong bài “Đời sầu của Ve” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ vang lên càng khiến không gian thêm buồn thê lương.
Augustino Dương vừa xắn bánh chuối vừa hỏi:
– Mấy người biết sao Hè về ve kêu hôn?
Matthias Hoàn đáp liền:
– Nực quá nó kêu chứ gì.
Augustino Dương cười tủm tỉm:
– Ờ, đúng là đàn anh lớp trên của tui, đi guốc trong bụng tui hoài.
Henrico Thạnh vui miệng kể:
– Con có một nhỏ bạn cùng quê đang sống ở Mỹ được một gia đình cán bộ gốc Đàng Ngoài tỏ ý muốn mời nó về làm dâu. Nó trả lời dứt khoát, “Không”, bởi nó thừa biết gia đình đó chỉ muốn mượn nó làm cầu nối sang Hoa Kỳ chứ ở tuốt ngoài ngoải biết khỉ gì về nó mà cưới với chả xin. Mà nếu cho tiền nó đi chăng nữa, nó cũng không chấp nhận, vì nó theo Đạo Phật và theo lời nguyền của bà nội nên quyết tâm không làm trái.
Augustino Dương trề môi:
– Làm như kết hôn giả sẽ không bị phát hiện vậy, con nhỏ xử sự khôn đó.
Matthias Hoàn nhướng mày hỏi:
– Ra giá bao nhiêu?
– Hơn một trăm ngàn Mỹ Kim.
– Gia cảnh nó giàu hay nghèo?
– Chỉ vừa đủ ăn, còn bên Mỹ thì đi làm lụng suốt ngày. Nó không chưng diện hay chải chuốt; là phái nữ mà chừng nào đồ đã quá cũ và giãn hết, nó mới sắm cái mới, còn phấn son, dầu thơm hay làm móng nó cũng không bao giờ rớ tới. Nó hay giỡn với con rằng, “Đồ của homeless còn đẹp, mới và tốt hơn của tao. Nói hổng phải mắc cỡ chớ tao mang đôi giày này gần sáu năm rồi, cũ xì, bong tróc hết, nhưng còn đi êm chưn nên chưa mua đôi mới.”
Augustino Dương gật gù:
– Vậy ai rước nó về làm dâu có phước lắm.
– Có điều, nó không giỏi nấu nướng vì không có thời gian trao dồi nữ công gia chánh.
– Chúa ơi, “nhân vô thập toàn”, đòi con gái người ta hoàn mỹ thì cũng nên ngó lại thằng quý tử của mình ra răng. Nó cần kiệm, không se sua hay chạy theo mốt – miết tân thời là quá được rồi.
Rồi Matthias Hoàn kể:
– Bữa hổm vô tình coi được clip ông Cha biểu diễn bài “Sáu mươi năm” của Y Vân; mèn đét ơi, ổng vừa hát vừa nhảy Disco, kết bài còn “Amen” một tiếng thiệt là lớn.
Augustino Dương cau mày:
– Vui mà.
– Tôi đâu có cằn nhằn gì. Ý của tôi là không biết ông Cha này với cậu có phải bà con ruột thịt không mà cái tánh ham vui y chang nhau.
Sẵn đây, Matthias Hoàn kể luôn:
– Ai cũng được điều đi quản xứ, riêng nó thì không. Cha Bề Trên Diệu biểu, “Cho nó quản xứ để cái chỗ đó thành sân múa lân luôn hả?” Quậy đến nỗi mấy ông bạn hồi trước của nó, giờ trở thành Cha Sở hết ráo rồi, dầu bận rộn cách mấy cũng không dám giao xứ cho nó để đi công chuyện, sợ rằng đi rồi cái xứ đó biến thành cái rạp xiếc.
Augustino Dương mời quý đồng tu coi màn biểu diễn “Khúc hát yêu đời” của Linh mục Tiến Linh; Cha Linh cũng là người sáng tác bản nhạc trên, và cũng người mà ông anh lớp trên vừa đề cập. Không quên đính kèm câu thòng:
– Đẹp trai, vui tánh, ca hay, nhảy giỏi,… giống tôi là phải rồi.
Henrico Thạnh trề môi:
– Bỏ điều đầu với hai điều cuối là giống hà.
Nhờ nói câu trên mà chàng Linh mục xứ dừa bị Cha Dương khỏ đầu không thương tiếc.
– Nó hồi còn trẻ đẹp trai lắm. Nói không ngoa chứ y chang Lê Minh… Cười cái gì mà cười sặc sụa vậy hai thằng kia? Để tao vô lấy album ra cho tụi bây coi.
Quả thật hồi trẻ Cha Dương hết sức đẹp trai, những lúc không cười càng đẹp trai tợn. Nhìn hình hài Cha Dương bây giờ mới thấy thời gian vô tình ra sao.
Matthias Hoàn hỏi:
– Thấy giống Lê Minh lúc đóng vai “Thần Bài” Cao Tiến hôn?
Henrico Thạnh mau miệng trả lời:
– Dạ, cũng có nét giống, nhưng Thầy và ông kia có vẻ đẹp riêng mà.
Augustino Dương khoanh tay mà thở dài thườn thượt:
– Xưa tao là Cao Tiến, giờ tao thành “Cao hũ cốt” rồi.
Lật tới một trang ảnh, Henrico Thạnh phì cười hỏi:
– Còn cái người mặt mày khờ ịch, ngu ngu đeo mắt kiếng là ai vậy hai Thầy? Ui da đau…
– Tao đó mày. – Matthias Hoàn trừng mắt.
Augustino Dương nhếch miệng cười mỉa:
– Mặt này khờ ịch từ hồi mới nhập học rồi. Bởi nói người ta hổng được điều đi quản xứ, mình cũng có được đâu mà hớn hở méc cho hai đứa kia nghe.
Ba cái miệng lanh quá nên Stephen Đoàn đấu không lại. Bây giờ anh mới có dịp lên tiếng:
– Sao vậy Thầy Dương?
Vẫn cái điệu cười nửa miệng, Augustino Dương trả lời:
– Tại hiền quá sợ Giáo dân “mần thịt” ổng chớ sao?
– Hai Thầy làm con nhớ hai cái tượng Ông Thiện – Ông Ác dựng ở đình… Ui da đau…
– Biết vậy hồi xưa tao để cho mày chùi cầu tiêu một mình rồi, hổng thèm rủ thằng Thành giúp đâu.
Augustino Dương vuốt lưng ông anh lớp trên đã qua tuổi hạc:
– Thôi mà, già háp khú đế rồi mà còn bày đặt giận lẫy nữa.
Stephen Đoàn bỗng nảy ra một ý:
– Hay là Chúa Nhật tới hai Cha lên giảng đi? Tuần này Cha Hoàn, tuần sau Cha Dương.
Matthias Hoàn vỗ đùi cái đét:
– Ý hay đó con!
Bỗng, có tiếng ai í ới ở ngoài hàng rào, nghe tuồng có vẻ mệt mỏi và già nua lắm.
– Thành! Là thằng Thành!
Mặc cho thằng con trai nuôi cự nự, Cha Thành vẫn nằng nặc xuống đây để được hội ngộ với thằng bạn thiết và đứa em đồng tu, sẵn dịp hàn huyên tâm sự với học trò Henrico Thạnh.
Như vừa uống hết một chén nước Thánh, ba ông Cha già nua trở lại với thời niên thiếu căng tràn nhựa sống của mình. Matthias Hoàn và Augustino Dương giục GB Thành và Simon Tử mau vô nhà tắm gội và thay đồ mới để đi ăn hủ tíu ngon hơn. Tiếng nói cười của mọi người phá tan bầu không khí quạnh quẽ và u sầu của cái xóm Đạo tương lai.
oOo
Chí Công mời người đàn ông chạy xe ba-gác mướn ăn hủ tíu với mình. Y cảm thấy hơi kỳ kỳ khi nghe thấy tiếng nói của chú đó rất hay và trầm ấm, sao mà y có linh tính là lạ vậy cà?
– Chú ăn màn thầu không? Thím Huê chỉ làm vào đầu tháng, ngày Rằm và cuối tháng thôi.
– Ăn. Nhân gì?
Thím Huê hướt lời mà đáp:
– Khoai môn, ca-dé với dừa bào, đậu xanh, đậu đỏ, đậu đen, hột sen, trà xanh, cam thảo, bí rợ và sữa – hột gà.
Ông chú tròn mắt ngạc nhiên:
– Chị giỏi dữ. Nội nhiêu đó nhân là muốn lọi tay rồi, còn phải bắc nước luộc lòng, chiên dồi, nấu cháo, nấu nước lèo và làm mấy món khác nữa. Bộ có anh nhà làm phụ hả chị?
– Chị lấy cho tôi mỗi thứ hai cái đi.
Một người đàn ông, chắc đã qua hàng bốn, rướn người trên chiếc xe gắn máy hiệu Kymco đời K-pipe 125 màu đen bóng mà chỉ chỉ vô xửng hấp của thím Huê. Giọng Huế rặt tự nhiên làm thím bùi ngùi nhớ xứ Tiều của mình, cả hai đều mang theo quê hương thông qua thanh âm trong tiếng nói.
– Mua mấy cái đây cậu?
– Mỗi thứ một cái thôi.
Vì mua nhiều nên Kiến Hữu được tặng một ly trà nóng do thím Huê tự sao chế. Vả chăng, anh ta cũng đã giúp thím thoát được câu trả lời với ông chú chạy xe ba-gác mướn, nên đây coi như một món quà cảm ơn “ngầm”.
Thể theo lời nhắn với Sơ Hiền, Chí Công đến công viên gần bùng binh Cây Liễu sau khi từ giã tài-xế xe ba-gác. Y có mua màn thầu chay và hồng trà sủi bọt có trân châu cho Sơ, hy vọng Sơ không chê.
Nơi công viên vô danh, Sơ Hiền đang nghe nhạc thông qua Airpods. Không hiểu sao Dòng nữ tu của Sơ lại chọn màu đỏ thắm cho sắc phục của mình; thành ra nhìn Sơ như một đóa hồng nhung lộng trong lồng kiếng pha lê, tưởng gần mà cách ngăn vời vợi.
– Cậu mới tới hả? Xin mời ngồi, tôi đã lau băng ghế sạch sẽ rồi.
– Con có mua cho Sơ chút đồ ngọt. Mong rằng Sơ không chê. À mà…
Sơ Hiền nhoẻn miệng cười trong lúc đưa tay nhận ly nước và hộp bánh:
– Nói đi cậu.
– Ai mua cho Sơ cái tai nghe này vậy?
Sơ Hiền vén tóc qua vành tai trái, rồi dịu dàng khoe với điệu cười nụ rất duyên:
– Con trai Sơ mua mừng sinh nhật Sơ đó.
Chí Công gãi đầu cười xòa, rồi hỏi:
– Sơ nghe chi đó?
– “Saiyaraa” do song ca Mohit Chauhan – Taraannum Mallik trình bày. Con nghe thử đi, hệt như tác giả đang kể về chuyện tình của Sơ và “L’Amant” vậy.
– Trời, con đâu có biết tiếng Ấn Độ?
– Người ta đăng kèm với phụ đề Anh ngữ con à. Thành ra dễ hiểu lắm.
Nghĩ rằng hỏi hoài thì làm sao Sơ ăn uống được, nên dù không có thói quen nghe nhạc theo lời giới thiệu của người khác, Chí Công vẫn mở điện thoại lên và bật bài đó nghe. Y chỉnh âm lượng vừa đủ để tránh làm phiền người xung quanh.
Chưa xem hết nửa video mà y đã bị tiếng hát của đôi song-ca và sắc đẹp của cặp diễn viên chính làm cho say đắm tình khúc này. Nhân lúc nhạc đệm vang lên và giọng ca tạm lắng, y chép miệng bình phẩm:
– Nhạc Ấn Độ luôn bám sát vào giai điệu và cách hòa âm phối khí truyền thống mà sao họ có nhiều bài hay hơn bài dở, trong khi ta quay trở về với truyền thống thì chẳng được mấy bài nghe lọt lỗ tai?
– Tại vì có ai đủ hiểu về giai điệu và hòa âm phối khí truyền thống đâu, cộng thêm không có người am tường chỉ dẫn và ít tìm hiểu sách xưa nên phổ ra một bài hát mang tiếng là nhạc dân ca mà không có một chút gì liên quan tới dân ca.
Người trả lời câu hỏi trên không phải là Sơ Hiền mà là pháp y Cảnh. Chàng bác sĩ Bạc Liêu đi cùng với điều tra viên Kha Ngạn và chú chó của anh – Phidel.
Sơ Hiền bối rối nhìn xuống băng ghế chỉ đủ cho ba người ngồi rồi lại đưa mắt nhìn hai cậu trai trẻ.
– Dạ, tụi con chỉ tạt qua đây một chút để cho con Phidel đi bộ thôi. Chứ hổng có tính nán lại làm phiền Sơ và… Ernest Công.
Sơ Hiền bị mặt dây chuyền hình cây Thánh Giá đeo trên cổ Cảnh Chiêu thu hút, Sơ cười hỏi tên Thánh của anh ta.
– Dạ, “Mạc-Ty-Nho”, tức Thánh Martin, nhưng Cha thường gọi con là “Martin – Matin” để dễ phân biệt với những người cùng tên Thánh khác trong Giáo xứ.
Sơ Hiền chỉ vô pháp y Cảnh với cái nhíu mày trên mặt:
– Là “Martino de Tours” hay là Martin khác?
– Dạ, là “Martino de Porres”.
– À…
Kha Ngạn chen vô bình phẩm:
– Ấn Độ là một trong những quốc gia sáng tác nhạc ít bị ảnh hưởng bởi văn hóa nước khác.
Sơ Hiền bèn mời ba người trai chưa bị hôn nhân cầm tù nghe bản “Chura lyra” do song ca Sachet Sandon – Parampara Tandon trình bày.
Pháp y Cảnh khen vô cùng sáo:
– Giọng nữ tuyệt diệu quá, không biết nên diễn tả sao mới nói đúng được nét huyền nhiệm trong tiếng hát ấy.
Sơ Hiền lại mời nghe tiếp bản “Kaun tujhe” do Palak Muchhal trình bày.
Nghe đâu được vài câu, Sơ than thở:
– Phải chi lúc trước tôi đừng gặp ảnh thì hay biết mấy.
Chí Công an ủi:
– Có một câu nói trong phim Hồng Kông như vầy, “Không cần thiên trường địa cửu, chỉ cần nhớ rằng chúng ta đã từng có nhau.”
Sơ Hiền sửa lại cái khăn trùm đầu, cốt để giơ tay che đi dòng lệ đang trào ra nơi khóe mắt phải.
– Niềm vui lớn nhất của tôi khi ấy là sáng dậy được thấy người đàn ông vụng về đó đang phá banh gian bếp với tài nghệ nấu nướng siêu đẳng của mình. Tôi vốn là tiểu thư nên cũng chẳng biết gì chuyện làm bếp, nên mỗi lần bị cơn nghén hành cho thèm ăn, tôi lại bắt ảnh chạy đi mua hết cái này đến này kia cho mình.
Rồi để đánh trống lảng, Sơ Hiền mời họ nghe bản “Dum dum” do song ca Benny Dayal – Himani Kapoor trình bày; một bài hát ca ngợi Tình Yêu thật vui tươi và sôi động.
Chí Công chia sẻ:
– Trong Ấn Độ Giáo, các vị Thần thường phô diễn sức mạnh bằng những điệu múa tuyệt đẹp.
Pháp y Cảnh gật gù:
– Hầu như phim nào về truyền thuyết Ấn Độ Giáo, các diễn viên được giao đóng vai Thần Linh phải biết nhảy và nhảy phải thật khá mới được.
Sơ Hiền đã lâu mới có người bàn luận trúng chủ đề yêu thích nên hào hứng kể:
– Nhạc phim Ấn Độ “Ek tha Tiger” có nhiều bài hay lắm. Như “Banjaraa”, “Laapata”, “Mash Allah”,… chẳng hạn. Diễn viên nữ đẹp đúng kiểu gợi cảm và mê hoặc chứ không gợi dục đ* thỏa như nhiều cô bây giờ.
Thí dụ là bài “Banjaraa”, do có sự cộng tác với Ái-Nhĩ-Lan nên đoàn làm phim Ấn Độ đã ưu ái và quảng bá văn hóa cho nước bạn rất nhiều. Xuyên suốt trong MV, nhờ không có cờ bay rợp trời hay mấy cái biểu ngữ “Vô địch…”, “Tự hào…”, “Biết ơn…”, nên những nét đặc sắc của Ireland đã được phô bày ra rất tự nhiên, vui tươi và dễ mến thông qua những màn hóa trang thành nhân vật có trong giai thoại xứ họ và lễ phục truyền thống, hay chỉ đơn giản là giới thiệu nếp sống hằng ngày của họ thông qua thường phục, tu phục, quân phục hoặc đồng phục của sở làm.
Kha Ngạn gật đầu:
– Phải, muốn có những thước phim quảng bá du lịch và văn hóa hay thì nên loại bỏ yếu tố đem cờ ra dàn trận và giăng ba cái biểu ngữ theo kiểu giương oai diễu võ và nổ banh nhà lồng.
Sơ Hiền đưa mắt ngó đôi tình nhân đang giận dỗi nhau mà lớn tiếng với đối phương, bà u buồn nói:
– Khi có nhau không biết trân trọng, đến chừng tan vỡ mới thấy hối tiếc muôn đời.
Pháp y Cảnh hỏi thẳng:
– Tại sao họ lại không giết Sơ?
Sơ Hiền lần chuỗi Mân Côi tới lần thứ bảy mới ngửng mặt lên và trả lời thật khẽ:
– Tại sao hả? Họ muốn lấy tôi ra làm tấm gương dằn mặt những ai dám lên tiếng vạch trần những tên có liên quan tới đường dây buôn lậu nội tạng.
Pháp y Cảnh ngỏ ý nhờ Sơ giúp mình nhận diện một trong những tay cò “nội tạng”.
Sơ Hiền mô tả dung mạo của tay cò mà bà còn nhớ mặt rất rõ.
Dựa theo lời kể của bà, Kha Ngạn họa ra chân dung như sau: Tên đó có khuôn mặt thoảng dài như con ngựa, mắt mí lót hơi xếch, mũi chim ưng, gò má cao, miệng rộng cùng cánh môi trên khá mỏng. Cũng may đôi tai rất đẹp nên tạm coi như điểm đặc sắc cứu vớt dung mạo vừa xấu vừa hiểm.
Đã nhận được tin cần biết, hai người thuộc Tổ Trọng Án từ giã Sơ Hiền và ký giả Côn Lôn. Chú chó Phidel nghe tiếng huýt sáo của cậu chủ, liền thôi chọc lũ bồ câu mà hối hả sải chân chạy về. Họ cùng chú chó lông vàng đến gặp người nắm giữ một trong những chiếc chìa khóa để hóa giải vụ án. Chiếc xe Hummer đen bóng đưa họ tới Giáo xứ Saint Pio.
Từ độ về lại thành đô, Stephen Đoàn theo học một khóa Tâm Thần Học online để giúp cô em xứ dừa chữa bệnh điên. Một tuần anh học ba buổi: Mỗi buổi kéo dài hơn hai tiếng, chia làm hai tiết, có nghỉ giải lao giữa giờ mười lăm phút; có ba ca: Sáng, Xế trưa và Tối, anh chọn vắt xế trưa để không bị ảnh hưởng tới lịch thờ phượng, vả chăng, ít ai ghé thăm anh vào khung giờ này nên anh có thể yên tâm đeo tai nghe mà chú tâm vô bài giảng.
“Bộp.”
Cái vỗ vai thâm tình của ông Cha Sở trung niên làm tim của Stephen Đoàn muốn nhảy khỏi lồng ngực. Anh ôm ngực mà quay mặt lại nhìn Ignacio Cường.
– Kêu hoài anh không ra, nên tôi phải vô đây coi…
Có tiếng đằng hắng nhắc nhở của vị giáo sư đầu bạc. Stephen Đoàn vừa rối rít xin lỗi vừa nhấn phím tắt tiếng, rồi đánh một dòng tin nhắn xin phép được nghỉ tiết sau.
Trên khóe miệng của Ignacio Cường còn dính vài hột cơm, chắc có lẽ gấp quá nên anh quên soi gương.
– Miệng dính cơm kìa.
– À. – Nói đoạn, Ignacio Cường lấy tay quẹt miệng.
Stephen Đoàn ló đầu dòm vô phòng khách thì thấy một người đàn ông đang ngồi ngó lên khung ảnh treo giữa bức vách ngăn cách phòng khách và phòng làm việc. Nếu như trí nhớ của anh không dối gạt anh thì anh và người này đã từng gặp nhau ở đâu đó rồi.
Sau vài câu chào hỏi xã giao, Stephen Đoàn và bác sĩ Cảnh mới vào đề. Chàng bác sĩ xứ biển mở cặp da rồi đưa cho người Linh mục xứ chôm chôm coi.
Stephen Đoàn cau mày nhìn bức tranh mà hỏi:
– Tự nhiên bày trò vẽ chân dung tôi chi vậy?
Cảnh Chiêu ráng nhịn cười:
– Không, đây không phải là Cha, mà là một người rất giống Cha.
Vừa hay Ignacio Cường bưng mâm lên nên hai người có một khoảng lặng vừa khít để định tâm suy nghĩ. Anh mời họ uống cà-phê đá và ăn xôi xoài rưới nước cốt dừa và rắc đậu phộng rang đã giã nhuyễn kiểu Thái Lan.
– Hỏi khí không phải, mẹ của Cha mất vì bịnh tình gì?
– Ung thư cổ tử cung.
– Có thể chữa khỏi bằng phương pháp thay thế nội tạng không?
– Tôi là Linh mục, không phải là bác sĩ như anh. Với câu hỏi trên, tự khắc anh phải có câu trả lời rồi chứ? Hay là…
Nhưng Cảnh Chiêu không nói thêm gì nữa. Anh bình thản múc xôi xoài ăn.
– Anh muốn biết gì về cha tôi hả?
Pháp y Cảnh cười mơn hỏi:
– Sao anh lại nghĩ vậy?
– Trên đời dưới thế, chỉ có cha tôi mới có khuôn mặt giống tôi thôi, chứ còn người ngoài tỷ lệ thấp thỏi lắm.
– Ba của Cha trước đây làm nghề gì?
– “Cò” nhà thương.
Cũng may Stephen Đoàn không nhận ra khuôn mặt tái nhợt của pháp y Cảnh sau khi nghe câu trả lời của anh. Anh đang quậy ly cà-phê cho hòa đá và nước, uống mới ngon.
Sau một hồi vắt óc suy nghĩ, cắn phải lưỡi mấy lần, pháp y Cảnh mới gượng hỏi:
– Hồi trước, trong nhà tôi có người bị bịnh nan y, lúc đó người bà con tôi đã chạy chữa khắp nơi, thậm chí còn mời cả thầy cúng về nữa; nhưng vẫn không qua khỏi. Không biết bên nhà Cha sao?
– Cha tôi nói đó là Quả Báo của ổng, vì thông đồng với những kẻ ác tâm để móc lấy từng xu trong hầu bao của bệnh nhân nghèo nên vợ thì bị ung thư thời kỳ cuối, còn thằng con thì xấu xí như Ngạ Quỷ…
Nói tới đây, hai hàng lệ nhòa đã tuôn xuống ̣đôi gò má của Stephen Đoàn.
– Thành ra ổng ghét tôi khôn cùng. Chừng mẹ tôi mất, ổng bỏ mặc tôi sống chết ra sao, còn đứng giữa xóm mà la làng lên biểu tôi chết bờ chết bụi cho khuất mắt ổng. Chỉ vì tôi là bản sao của ổng nên ổng ghét tôi một cách tàn tệ.
Ignacio Cường xen vô:
– Cho nên anh mới thương cô Xuân, vì cô Xuân luôn dành lời hay ý đẹp cho anh?
“Rầm.”
Stephen Đoàn xô đổ cái ghế cây có lưng dựa mà mình đang ngồi, rồi đi một hơi như ma đuổi ra bờ sông.
Vừa níu tay Cha Cường, pháp y Cảnh vừa khẩn khoản hỏi:
– Cô Xuân là ai vậy Cha?
Đôi mắt của Cha Cường long lên sòng sọc:
– Một con nhỏ ở dưới Kiến Hòa.
Rồi Ignacio Cường vùng tay thật mạnh để thoát khỏi cái níu chặt như đóng đinh của pháp y Cảnh, để đuổi theo ông Cha Phó đa sầu đa cảm như… Kim Trọng.
– Ở bên Tàu có Quan Vân Trường, còn xứ này có Quan Vân Cường.
– Hai ông Cha trạc tuổi nhau nên y như hai con cọp.
– Cũng may có cọp nguội, cọp nóng. Chớ hai Cha dữ như nhau dám có chém lộn.
– Bậy mày!
– Nói quá cho vui chớ ai hổng biết hai Cha sao chém lộn được?
Pháp y Cảnh đuổi theo không kịp nên chỉ đành đứng lóng nghe cuộc pha lửng của hai ông già ngồi đánh cờ tướng. Anh than thở với hai ông già:
– Cha hay “Thiên Lý Mã” mà đi bộ lẹ dữ trời. Mới a thần phù cái… mất tiêu.
Một trong hai ông già sợ hai Cha tuổi trẻ máu nóng nên chạy đi kiếm đám thanh niên đặng nhờ đi tìm hai vị Mục Vụ của xứ.
Ngang qua quán cơm vợ chồng dượng Bảy, nhác thấy Cha Thành và thầy Dự đang bàn luận thời sự với gia chủ, “Tứ đại hộ vệ” nán lại hỏi han tung tích của Stephen Đoàn và Ignacio Cường, song chẳng ai hay biết.
Cha Thành nêu ra một gợi ý:
– Con ra mé sông tìm chưa?
– Giáo xứ mình có hai mặt giáp sông, không biết Cha Mỹ thường ra đứng ở bên nào nhiều hơn.
Về phần Stephen Đoàn, biết mọi người sẽ ra mé sông tìm mình nên anh đã ra quán cà-phê “Sóng Nhạc” cho yên thân. Trước khi ghé qua đây, anh tới tu xá trường Dòng Chúa Cứu Thế để rủ Cha Hoàn đi uống nước với mình.
Mua đồ uống xong rồi, Cha Hoàn biểu con trai ra công viên vô danh gần đó ngồi nói chuyện cho khoảng khoát.
Công viên mùa nghỉ Hè thắm sắc huyết phượng và bông thầu dầu. Thảm cỏ xanh rì, êm như nhung gấm, thơm thơm hương đồng cỏ nội; tiếc là trên đó lác đác rác rến do khách nhàn du và người bán hàng rong để lại nên coi bớt nên thơ đi nhiều. Mấy băng ghế đá bị hư hết ba cái, cũng may còn bảy cái ngồi được, nhưng cũng không tự tin “an tọa” vì chim chóc chọn chốn này làm tổ uyên ương. Đài phun nước nhân tạo hoạt động khá trơn tru, tối nào ở đây cũng có màn biểu diễn đèn màu và xoáy nước rất đẹp. Những con đường lát đá không trơn nối lại thành hình chiếc lá phong; vì ngày nào người dân cũng ra đây tập thể dục nên những viên đá đã sớm mòn lẳn và phai mất hoa văn sau bao nhiêu năm trơ gan cùng tuế nguyệt. Không khó để thấy “bãi chiến trường” của mấy con chó cưng vương lại ở bồn cây, chỉ tội những người lao công tự dưng phải rước bực vào thân.
Từ một chiếc xe bán kẹo kéo, tiếng hát Elvis Phương trong bài “Vùng con tim” của nhạc sĩ Hoài Linh vọng ra những lời tình ái nỉ non mà dễ thương.
Sau vài lượt dạo chơi ngoạn cảnh, rốt cuộc hai cha con cũng kiếm được một băng ghế khá sạch sẽ để dừng chân.
Vừa dằm sinh-tố sữa chua, Cha Hoàn vừa tâm tình:
– Con có thể chạy trốn bất kỳ ai, ngoại trừ trái tim con. Nó đang hiện hữu ở đó và báo cho con biết con đã yêu.
Stephen Đoàn ngước mắt nhìn lên vòm cây huyết phượng, rồi khẽ khàng nói:
– Con muốn lên Thất Sơn một chuyến. Con muốn tĩnh tâm một mình.
Cha Hoàn gật gù.
– Xin Cha đừng tiết lộ cho người nào hay, nhất là Xuân.
…
Từ giã Sơ Hiền, Chí Công lên xe đặng khởi hành về Biên Hòa. Thay vì đi bằng tuyến xa cảng miền Đông, y lại sử dụng chiếc xe gắn máy thân yêu.
Bây giờ đã vào mùa bưởi, những trái bưởi xanh rì, nặng như cục tạ mang hương thơm ngọt ngào được bày trên những cái kệ lót bạt ni-lông xanh – trắng ở các sạp trái cây trông thật thích mắt. Chí Công cũng tắp vào mua bậy hai trái, và nhờ chị chủ sạp xẻ giùm mình; vì y không muốn để người anh đồng Đạo trông thấy con dao bấm của mình.
Sau vài thủ tục cần thiết, Chí Công mới được một nữ y tá dẫn đi thăm người anh kết nghĩa. Anh ở khu biệt lập, có người canh gác và máy thu hình an ninh giám sát cả ngày lẫn đêm. Nghe đâu, hớt tóc và cạo mặt đều phải do điều dưỡng viên làm thay; còn lấy ráy tai cũng phải có sự chứng kiến của điều dưỡng viên này. Trong nhà tắm không có gương soi hay những vật dụng làm bằng chất liệu kiếng, máy nước nóng – lạnh đã được thảo trình sẵn về mức vừa phải chứ không để ảnh được tự ý điều chỉnh theo ý mình. Song được cái ảnh không có đập phá hay la hét gì, đến bữa cũng biết ngồi vào bàn ăn uống đàng hoàng và gọn ghẽ như những bịnh nhân không bị bệnh nặng ở các khu khác.
– Anh An-Phong!
Alphonso Lữ Gia Hạp dời mắt khỏi trang sách mà quay qua nhìn thằng em với một nụ cười thật tươi:
– Ernest, em mới tới hả?
– Dạ.
Phòng bệnh của An-Phong-Sô được trang hoàng như một nhà nguyện; chỉ trừ lúc ngủ và đi khám bịnh, anh mới rời xa tấm áo dòng. Tai nạn lần đó đã khiến chàng mất đi một phần trí nhớ, còn đầu óc thì lúc tỉnh lúc điên, do đó bác sĩ phải để anh ở riêng một phòng và luôn có máy ghi hình giám sát 24/24. Đó là những dữ kiện mà trí não anh lưu lại, còn những chuyện khác khi nhớ khi không.
– Bữa nay đãi anh món gì nè?
– Mấy món Hoa đơn giản thôi. Cá chẽm hấp hành – gừng, sườn xào chua ngọt và canh ngũ sắc.
– Bánh hột gà?
– Đương nhiên phải có rồi.
Chợt, Ernest Công đưa mắt nhìn lên giá vẽ dựng đâu mặt với cửa sổ phòng có những chấn song đang loang màu nắng. Vẫn là tờ giấy trắng đã ố vàng, không có gì thay đổi hết.
– Anh cho em mượn họa cụ được không?
– Được chớ.
Ernest Công vốn không cho ai biết, kể cả mấy thằng bạn thân, hay rằng y có tài vẽ tranh truyền thần. Y có dịp đến phỏng vấn quản gia nhà Trịnh Hoài Sang, và vô tình nhìn thấy một bức họa có đường cọ giống hệt mình; hỏi ra thì quản gia nói đó là tranh của ông chủ, ông chủ nhờ tài vẽ tranh truyền thần làm vui lòng con gái nhỏ của ân nhân nên được người này trọng dụng và nhận làm con trai nuôi, từ đó ông ta đổi sang họ Trịnh, kể tới đây thì thiếu gia – tiểu thơ về nên ông ta đánh trống lảng sang chuyện khác.
– Em vẽ Đức Mẹ hả Ernest?
– Không, em vẽ một Dì phước thôi.
Chưa đầy hai tiếng đồng hồ mà Chí Công đã vẽ xong bức họa về Sơ Maria Magdalene – Đặng Thu Hiền. Trong tranh, Sơ quỳ bên một con suối trong vắt mà cúi đầu soi mặt, làn nước mát mẻ ấy phản chiếu hình ảnh của Sơ và một phần tàng cây táo chín đỏ. Trên lưng của Sơ là cây Thánh Giá trổ đầy hoa thường xuân và gai nhọn. Tuy bức họa thật đẹp nhưng vì nước sơn không tốt nên nó bị kém phần sống động và rung cảm rất nhiều.
– Sơ đó là ai vậy?
– Mẹ ruột của một người Mục sư.
Alphonso Lữ nhướng mày:
– Sao lạ vậy?
– Sau cái chết của nhân tình, Sơ mới đi tu, để lại đứa con cho người bạn của chồng trông coi. Nhưng ông nghĩ đứa trẻ này đã Rửa Tội theo nghi lễ Công Giáo nên đã gởi nó vô trường Dòng Chúa Cứu Thế.
– Rồi sao nó thành Mục sư? Hay là em lộn?
– Dạ không…
Cánh cửa bỗng dưng bật mở. Liền sau đó, một người bác sĩ thông báo đã tới giờ khám bịnh và cấp thuốc cho Alphonso Lữ.
– Oa, tranh đẹp dữ! Ương hay Hạp vẽ đây?
– Là anh Hạp.
– À…
Không để cho viên bác sĩ trẻ măng hỏi han thêm nữa, Ernest Công đã mời anh ta ăn bánh hột gà. Anh ta cũng không khách sáo, nói lời cảm ơn rồi ăn liền hai cái bánh hãy còn thơm giòn dù đã nguội ngắt.
Nhác thấy cà-mên sạch trơn, chàng bác sĩ hấp háy mắt cười và “dụ”:
– Bữa nay Hạp ăn khỏe dữ. No bụng rồi thì uống thuốc nghen?
– Ừ.
Biết Alphonso Lữ rất ghét uống thuốc, thành ra chàng bác sĩ không nài nỉ thêm mà dúi vô tay anh tu sĩ một cử thuốc ba viên và chai nước suối dung tích nửa lít.
– Ê, uống thuốc thì không được ăn bưởi nhe? Dã thuốc hết.
Ernest Nguyễn pha trò:
– Vậy mời bác sĩ “tịch thu”.
Rồi vừa ăn loại bưởi trứ danh của đất Biên Hòa, chàng bác sĩ vừa kể chuyện vui trong nghề nghiệp: Có ông bác sĩ làm việc ở nhà thương điên riết phải đi uống thuốc hướng thần đặng điều chỉnh tâm lý lại, vì về nhà ông cư xử y chang bệnh nhân với vợ con: Tức là hay nổi nóng và quát tháo vô cớ.
Chí Công cũng góp vui bằng vài mẩu chuyện của cái nghiệp ký giả của mình.
Đôi bên càng nói càng hăng, chừng quên mất tiêu Alphonso Hạp luôn nên không thấy sắc mặt chằm vằm của anh ta.
– Đôi khi người trầm cảm chuyển sang chứng điên hồi nào mà ngay cả bản thân họ và người điều trị cũng không hay biết, đến chừng họ tự sát thì người ta mới hay.
Chàng bác sĩ lùi về sau ba bước, rồi lần tay bấm chuông kêu “cứu viện”. Mỗi bận người bịnh nhân tự xưng Linh mục này nói câu trên là y như rằng sắp sửa lên cơn.
Alphonso Hạp tiến lại gần giá vẽ, rồi cầm cọ lên quẹt vài đường. Không còn cây Thánh Giá hay dây leo thường xuân nữa, thay vào đó là đôi cánh quỷ, cặp sừng trên đầu và những nhánh cây gai góc, tua tủa đen xì. Hành động này đã làm chàng bác sĩ tin rằng bức họa này là tác phẩm của anh.
Chí Công cũng mau lẹ dọn dẹp bàn ăn rồi đứng cùng “chiến tuyến” với vị bác sĩ đất đỏ Biên Hòa.
Đợi bác sĩ và y tá có mặt trong phòng, Chí Công mới cáo lui, không quên để lại cái hẹn tái ngộ với An-Phong Hạp.
Trở lại miếng đất mà mình đã từng sống cùng thầy – u, Chí Công được cháu nội chủ nợ dắt đi coi vườn tược vài vòng. Vừa rảo bước, anh Ba Beo vừa hái những trái chín xuống cho y ăn giải khát.
Đến gốc Lê-ki-ma không có trái, chỗ cái miễu của Ông Nhỏ, anh Ba Beo kể cho đứa nhỏ cùng xóm thuở trước nghe cuộc hạnh ngộ với một vị Linh mục kỳ dị từ ngoại hình cho tới tánh nết, không quên thuật lại lời chàng ta rằng chàng ta nhận mình là anh bên Đạo của Chí Công. Khi Chí Công hỏi người đó tên gì, anh Ba Beo đáp, “Steven hay… Stephen Mỹ thì phải? Ba cái tiếng Anh – tiếng U khó nhớ quá chừng.”
– Nếu là Stephen Đoàn Ngọc Mỹ thì em có biết, nhưng không quen thân mấy, chỉ là học cùng Thầy dạy giáo lý thôi.
– À… – Anh Ba Beo gãi đầu cho bớt ngứa. Đoạn mời. – Thôi mày ghé quán cơm kiếm giống gì bỏ bụng đi. Tao đi gội đầu cái, ngứa quá rồi.
Đường tới quán cơm rất gần, Chí Công lại thông thạo đường tắt nên chỉ mất chừng hai mươi phút là có mặt ở đó. Lúc này trong quán cơm không quá đông khách, bàn trống còn khá nhiều nên y tha hồ lựa chọn. Sau một hồi cân nhắc, y bèn nhập bọn ngồi coi vở hài kịch “Lên chùa phóng sanh” của Tấn Beo và Dũng Nhí với nhóm tín đồ hành hương về Đền Thánh.
– Ăn gì đây em trai? Giống hồi nhỏ hôn?
Đã lâu lắm rồi Chí Công mới gặp lại con trai của chủ sới đá gà. Anh ta tuy cao hơn ngày xưa rất nhiều nhưng vẫn không “nở” bề ngang được bao nhiêu, cứ còi cọc và khẳng khiu như cũ.
– “U như kỹ”.
Thuở còn bé thơ, Chí Công thường hay ghé qua sới gà ăn chực cơm nhà họ. Món mà y thường được cho ăn là cá lù đù chiên tươi và canh chua tép mòng, họa hoằn lắm y mới dám rớ tới xoong thịt kho tiêu hay mấy cái đùi gà chiên thơm lựng. Phận mồ côi mồ cút, có cha mẹ – ruột hay nuôi cũng như không, nên y rất thấm thía câu “Út cụt đuôi ai nuôi Út lớn, Út thưa rằng em ở mình ên.”
– Vịt kho gừng, cá ngộ chiên tươi và canh rau bồ ngót – cua đồng. Toàn là món mày thích không đó.
– Có rau lang luộc không anh? Cho em xin một dĩa đi.
Anh ta vỗ đầu y một cái thật đau:
– Xin gì? Ăn thì nói tao lấy cho. Bày đặt khách sáo.
Sau khi dọn dĩa rau lang luộc và chén chao môn lên bàn, người anh hàng xóm chỉ tay về phía bóng lưng mặc áo hường phấn:
– Tao để ý mày giống cha kia hệt khuôn.
Chí Công đẩy ghế mà đứng dậy nháo nhác dòm.
Vừa hay người kia quay mặt lại, quả thật khuôn mặt hao hao Chí Công, chỉ khác mỗi khuôn miệng và cái cằm. Ông đó cằm chẻ, còn y là cằm vuông có ngấn. Hay là vì y giống mẹ nên không có cái cằm chẻ như cha?
– Anh ơi, liệu chú đó có phải ba em hay không? Sao mà từ con mắt, cái mũi, vầng trán tới hai cái gò má cũng có nét giống vậy?
Người anh giang hồ cười phá lên:
– Ông đó ổng “ái”, mày ơi. Sao là cha ruột mày được.
Chí Công ngồi xuống với vẻ mặt chưng hửng. Sau vài mươi giây định tâm, y mới lên tiếng hỏi:
– Chú đó sống bằng nghề gì?
– Làm bia mộ với… làm việc cho nhà quàn. Ổng có hoa tay lắm, chỉ cần một cành cây là có thể vẽ được một bức tranh rất đẹp trên cát hoặc trên đất.
– Ngộ vậy? Đáng ra chú đó phải làm ở bảo tàng hay ngành Mỹ Thuật mới đúng. Khi khổng khi không lại “giao du” với người cõi Âm.
– Ừ, tao cũng thấy ổng “Mác-tăng-xít”. Gặp tao nghen, dễ dầu gì tao phí tài mình cho cho mấy cái nghề tối om kể trên.
– Mà, sao anh rành rọt dữ thần vậy?
Người anh hàng xóm khoa tay múa chân mà nói:
– Trời ơi, ổng mướn nhà anh Ba Beo chứ đâu. Đi ra – đi vô đụng mặt hoài sao hổng biết được.
Sau bữa cơm, Chí Công xách xe chạy lại khu nhà trọ của gia đình anh Ba Beo.
Khu nhà trọ của gia đình anh Ba Beo được tân trang khá đẹp: Phòng ốc có thêm cửa sổ và lỗ thông gió. Hành lang được lát gạch nhám giảm trơn để tránh những tai nạn đáng tiếc. Còn mái nhà thì đã gỡ bỏ hết lớp tole rỉ sét và thay thế bằng ngói gài chắc chắn, không chứa chất độc hại. Và tường thì được quét lại một lớp sơn coi mòi rất mắc tiền nên ít bị bám bụi và không bị bong tróc, phai màu lẫn dính dơ dù ngày nào mấy đứa con nít cũng chơi đá banh ầm ầm. Trong sân có liếp rau, vồng khoai và giàn mướp – bầu – bí – dưa leo; chắc để đỡ đần bữa cơm của bà con nghèo trong xóm trọ. Ngoài ra trong sân còn trồng những cây ăn trái như bưởi, cóc, xoài, chanh, hạnh, ổi, mận, điều, mít,…
– Mướn nhà hả cậu?
Một ông bác mặc quần đùi, mình để trần, mang dép xỏ ngón đứng chắp tay sau lưng mà nhìn Chí Công đầy nghi hoặc.
– Dạ không, con đang viết phóng sự về những chuyện kỳ bí ở các khu nhà trọ.
Nói đoạn, Chí Công trình thẻ nhà báo của mình ra cho ông bác kiểm chứng.
Sẵn tánh nhiều chuyện, ông bác bèn rủ Chí Công ra quán cà-phê đầu lộ ngồi tán dóc chơi. Y ưng thuận liền.
Vì quán cà-phê ế ẩm nên thím Năm đã nhượng một phần diện tích cho một thợ cắt tóc để trả phụ tiền lương cho nhân viên bên mình; hai bên khu vực được ngăn cách bằng một vách kính cường lực có khung viền làm từ gỗ, đứng từ quầy thu ngân có thể trông sang khá rõ. Từ ngày cho người đó thuê nhà, quán cà-phê của bà buôn bán khá lên rất nhiều, do người ta hay kêu đồ uống trong lúc ngồi đợi tới lượt mình hay người thân cắt tóc. Nhưng hiềm một nỗi, bà có chứng sợ ma-nơ-canh và các loại búp-bê khác nên yêu cầu người thuê nhà phải cất chúng sau khi hết giờ làm.
– Ông muốn ăn gì hôn? Con bao.
Ông bác bèn dẫn Chí Công đi mua bánh mì phá-lấu và xíu mại ở xe hàng rong cách đó chừng vài căn. Trước khi đi, y và ông bác dặn thím Năm nhớ làm sinh tố cà-phê sữa đá và nước đá me.
Trong lúc đợi ông chú làm bánh mì, Chí Công có hỏi han ông bác về thân thế của ổng, thì mới hay bố mẹ ổng là Bắc Kỳ 54, nhưng vì sống ở trong Nam riết nên từ tiếng nói cho đến lối sống ổng đều rặt ri trong này chứ không còn giống đất tổ nữa.
– Ủa? Sao gia đình con lại xưng là “Thầy – U”? Vậy chắc tụi nó kêu con là “Cậu” hả?
– Dạ, theo như lời kể của bà con chòm xóm thì là vậy.
– Trời ơi, gia đình bình dân mà tưởng con Hội Đồng hay điền chủ.
– Dạ, chắc tại… con là con nuôi.
– Con nuôi thì con nuôi chớ. Ai đời lại…
– Nè, bánh mì phá-lấu với xíu mại của hai người nè.
Nhận xong ổ bánh mì và hộp xíu mại, hai ông – cháu mau chóng trở về quán cà-phê của thím Năm.
Được sự cho phép của ông bác, Chí Công bèn bật máy ghi âm trước khi nghe ổng thuật lại những chuyện kỳ bí ở căn phòng không có ai ở được trong xóm trọ mà ổng đương cư ngụ. Vừa kể, ổng vừa nhai đồ ăn nhồm nhoàm, chắc có lẽ ổng đang đói dữ lắm, thành ra y không nảy sinh chút gì phiền trách hay chê cười.
– Ông muốn ăn món gì nữa không?
– Cho là ăn hà.
Chí Công thương cảm hỏi:
– Chẳng hay ông làm nghề gì sống?
– Hồi đó còn chạy xe ôm, sau xăng lên giá mà mình lên tiền cước thì khách hổng chịu đi nên ông phải bỏ nghề, chuyển sang làm vườn mướn cho người ta. Ngặt cái, ông già nên làm đâu có lại đám thanh niên – trai tráng, nên người ta trả rẻ mạt hà. Cũng may chòm xóm cho mua đồ thiếu và ở không hổng có tốn tiền nên ông mới lay lắt sống tới giờ.
– Vậy ra ông ở đậu chớ hổng phải ở trọ…
– Ờ, ông Tám Sác thương người đồng niên mà vẫn phải gánh phong trần nên không lấy đồng xu cắc bạc nào.
Sau khi đã thu thập được những tin tức cần biết về dãy nhà trọ của gia đình anh Ba Beo, Chí Công gọi thím Năm lại rồi nói rằng muốn trả hết tiền nước mà ông bác đây nợ quán thím. Thím Năm cũng không cù cưa “cút-kít”, liền lật đật chạy đi lấy sổ tay mà đưa cho cậu ký giả hào phóng coi để soạn tiền trả giùm ông bác. Nhiều dễ sợ, có lẽ thiếu từ đời cố lũy cố lai để lại, cũng may trong túi y đang rủng rỉnh tiền nên mới trả hết nổi.
Xong đâu vào đó, y chở ông bác đi kiếm chỗ bán vịt quay để mua cho ổng một con mà dành bụng ngày mơi. Dọc đường đi, ổng kể hết chuyện này tới chuyện kia, đáng nói nhứt là chương trình “Chuyến tàu hồi hương” tổ chức vào đầu thập niên Chín Mươi và kết thúc vào đầu năm 2001, dằng dai dữ lắm mới hoàn thành êm đẹp. Sợ ổng sanh nghi nên y không hỏi thêm, chỉ ậm ừ cho xuôi chuyện, chứ trong bụng y rất muốn hỏi ổng có nhớ ai sống cùng xóm với thầy – u đã đi về Bắc chung chuyến với họ không.
Về tới xóm trọ, ông bác khoe liền với ông Tám Sác về việc được một cậu lạ mặt bao ăn uống và tặng tiền với vịt quay cùng đồ bổi ăn kèm với món này.
Ông Tám Sác trầm ngâm:
– Sao tôi thấy cái cậu này giông giống với thằng khứa mới chết tên Sang quá.
Ông bác xua tay lia lịa, rồi trề môi mà kể lể những việc gian ác mà Lê Hoài Sang đã từng làm lúc sinh thời.
Ông Tám Sác không muốn lôi thôi nên lựa lời nói xuôi luôn:
– Đúng rồi, con người nhơn đức vậy sao lại là con của thằng chó đẻ đó được.
Nói đoạn, ông Tám Sác cáo bận nên không thể nán lại tán dóc thêm được nữa. Ông bác bần hàn cũng không cầm chân, liền xin phép trở về phòng trọ nghỉ ngơi và cất đồ.
Lúc này bầu trời ui ui như sắp chuyển mưa. Gió lạnh thổi từng cơn heo hắt. Thảng có vài tia sét lóe lên ở đằng Tây – Bắc, kèm theo sấm rền và chớp giựt. Một số người sợ mắc mưa nên kiếm chỗ nào vô đụt hoặc tắp vô mua áo mưa rồi tròng sẵn trên người. Chí Công cũng không ngoại lệ, y đứng nép mình dưới hàng hiên một cửa hàng bán vật liệu xây cất đã kéo cửa nghỉ sớm; cùng đứng với y có hai mẹ con mặt mày hao hao nhau: Người mẹ đã trộng tuổi, còn đứa con gái chỉ mới học Tiểu Học, chiếc xe gắn máy Attila màu tím biển khá lớn so với khổ người của chị đó, không biết chỉ chở con có được an toàn không.
Chợt, có một ông bác bán đồ chiên hớt hải dắt xe vô hàng hiên. Con nhỏ đói bụng nên mè nheo với mẹ nó; chị lừ mắt nhìn nó, rồi nói nho nhỏ, “Nuôi mày đi học tốn quá trời tiền, giờ còn đòi bậy nữa.” Chí Công bèn mời con nhỏ đó ăn gì cứ kêu, y sẽ trả tiền. Người mẹ không cảm kích lòng tốt của y thì thôi, còn trừng mắt ngó y lom lom, như sợ y lập kế hại con của chị vậy. Nhưng con nhỏ không đủ tinh tế để nhận ra sự khó chịu của mẹ mình, vì ngày nào mà mẹ không trưng bộ mặt sưng sỉa và hờn người này – trách người kia, thành ra nó tự nhiên lại gần chiếc xe bán hàng của ông bác và chỉ hết cái này tới cái kia. Ông bác ái ngại giùm y nên nói giá cho con nhỏ và y biết, nhưng y niềm nở biểu, “Con lo được. Xin ông đừng sợ.”
Trên đời dưới thế có những người làm cha – làm mẹ, hồi không có con thì thành khẩn cầu Trời vái Phật ban cho mình một đứa con, tới chừng đẻ nó ra làm ăn không thuận lợi hay bị sa thải khỏi hãng – xưởng lại biến nó thành cái thùng rác để trút những phẩn dơ trong trí óc họ. Từ đó mà y mới quan niệm, con cái là cái Duyên, không có con cái là cái Phước; nên nếu mai sau bị muộn con thì y và vợ sẽ chẳng thèm đi van xin ở đâu hay cậy nhờ phương pháp thụ tinh nhân tạo nào.
– Khỏi thối, còn dư có bao nhiêu đâu mà ông tốn công soạn tiền trả con?
Ông bác cười khoe hàm răng khấp khểnh và vàng ố:
– Vậy cảm ơn con nghen.
Đến lúc này, người mẹ trộng tuổi mới nói lời cảm ơn Chí Công với sắc mặt lạnh tanh như bị mất sổ gạo. Y cũng không phiền trách, chỉ gật đầu và cười mỉm đáp lễ.
Ông bác nhân đây tâm sự rằng tưởng đâu bữa nay phải về trễ để “bù giờ”, nhờ có y mà ông được về sớm hơn nửa tiếng, không biết lấy gì cảm ơn nên ông chiên cho y một xâu trứng cút lăn bột ăn chơi. Y cũng không khách sáo, bèn nhận lấy với câu cảm ơn trên môi.
Bất thình lình, người đàn ông có vẻ ngoài rất giống với Chí Công cũng hối hả dắt xe vô hàng hiên đụt mưa. Mưa tuy nhỏ hạt nhưng rất lạnh và dày, nên chú không thể băng mưa mà về được.
Giờ có dịp đứng gần, Chí Công mới thấy ông chú “ái” thiệt. Từ cử chỉ vuốt tóc cho đến cái liếc mắt và điệu cười đều rất ư nữ tính. Không biết người này đang tán gẫu với ai mà vui quá trời quá đất.
Đợi trời ngớt mưa một chút, Chí Công mới lên xe về khách sạn ba sao mà y thuê ở một tuần. Đến hẹn lại lên, y và mấy thằng chiến hữu chia nhau một phương rong ruổi: Thằng Hoàng về An Giang, thằng Bình ra Huế, thằng Nhạn thì đi chu du đây đó, còn y xuống Đồng Nai thăm nơi xưa chốn cũ. Không nhờ trúng giải Nhứt của chương trình bốc thăm trúng thưởng do công-ty bán đồ massage tổ chức, chắc y cũng chẳng dám thuê chỗ này hay vung tiền cho ai.
Trong lúc y đang soạn đồ đi tắm, điện thoại của y báo có tin mới trên Facebook.
– Gì vậy má?
Một người lạ hoắc lạ huơ chia sẻ bài viết dính với tên trương mục của y. Chắc có lẽ gõ tới chữ “Côn”, nó hiện ra tên của y mà người này không để ý nên vô tình nhắn cho y xem.
Nội dung bài viết giới thiệu về buổi tiệc tùng của con trai trưởng Lê Hoài Sang sẽ được diễn ra vào đầu tháng tới. Cô diễn viên bấm lộn sang Facebook của Chí Công đã chỉnh sửa bài viết và xóa phần liên kết với trang của y nên y chỉ đọc được tới đó thì mất dấu.
– Cha chết mà còn tiệc tùng linh đình. Thứ dòng bất hiếu trời đánh thánh đâm.
Mới vừa dứt tiếng, bên ngoài chớp lóe sáng rực kèm theo tiếng sấm nổ ì đùng.
– Con hổng có liên quan gì với cái gia đình này nghen Ông Trời? Có đánh thì đánh mấy đứa kia, ruột rà gì đâu mà đánh con.
Lại thêm một ánh chớp và tiếng sấm nữa vang lên.
– Gì kỳ vậy nè? Sao cứ nhè con mà đánh hoài dzậy?
Sợ rằng ở lâu trong phòng một mình đầu óc dễ phát sinh hoang tưởng, Chí Công hớt hải đi tắm gội cho sạch sẽ rồi sau đó sẽ xuống nhà hàng của khách sạn ngồi chơi cho khuây khỏa tinh thần.
Xuống tới nơi mới hay nhà hàng đang mở bán theo dạng tiệc tự chọn. Sẵn đang có tiền nên Chí Công mua một vé vào “cổng”. Nhưng bước vô rồi y mới ngại ngùng nhận ra ai cũng ăn diện bảnh tỏn và nồng hương dầu thơm thượng phẩm, duy chỉ có y là “Hành khất đại hiệp”.
Do y đi có một mình nên bồi bàn xếp y ngồi trên băng ghế dài có tầm nhìn hướng ra sông Đồng Nai cùng với những thực khách cô đơn khác. Mỗi người ngăn cách với nhau bằng hai tấm vách ngăn gỗ trơn màu và láng coóng, cao chừng nửa thước.
– Cậu chủ, sao hổng vô bàn ngồi ăn với gia đình mà buồn tình ngồi đây?
– Trời đất ơi, anh lộn người rồi, tôi mồ côi mà.
– Giỡn hoài! Cái mặt này là…
– Là mày lộn rồi đó. Về đứng gác đi kìa. Thứ dòng ngu ngục.
Bây giờ Chí Công mới vỡ lẽ: Hóa ra nãy giờ Ông Trời gầm gừ là vì mấy đứa kia có mặt tại đây chứ hổng phải hăm he y.
Bà vợ lớn của Lê Hoài Sang giựt bắn mình khi nhìn thấy người trai lạ mặt giống thằng chồng đã chết như hai giọt nước. Bà nhớ bà đã cho tiền đôi vợ chồng Bắc Kỳ đó đem nó về ngoải rồi mà, vậy thằng này là ai đây? Hay chỉ là một sự tình cờ mà thôi?
– Ơi cậu ơi…
– Dạ?
Giống quá, tiếng nói cũng giống nữa.
– Cậu khoái ăn hàu hả?
– Dạ, con rất thích ăn đồ biển, tái – chín gì cũng mê.
Thằng chồng của bà bị dị ứng hải sản khá nặng, ăn vô một miếng là ngồi gãi như khỉ mắc phong. Hay là nó giả bộ?
Vì đã nghe loáng thoáng con mụ già này rất tàn nhẫn và ác tâm nên Chí Công không dám nói nhiều với bả, sợ bả nghi y đang điều tra hay có liên quan tới chuyện khám phá nguyên nhân gây ra cái chết của ông chồng bả thì khốn. Y đi tới đâu, bả bám theo tới đó, khiến y hết sức bực mình và khó chịu. Chừng trở về bàn rồi, ánh nhìn chòng chọc của bả vẫn dính chặt trên lưng y. Hết thằng cha “dô diên” kia gọi là “Cậu chủ”, giờ tới má này coi y như con riêng của chồng mà ngó nghiêng, dò xét đủ điều.
– A, xin lỗi quý khách, quý khách chỉnh lửa sai cách rồi… Để tôi nướng giùm cho nghen?
A, không tin y không bị dị ứng với hải sản nên phái khứa bồi bàn qua dọ thám chứ gì? Vậy thì hãy coi y ăn banh chành nguyên cái nhà hàng này đi.
– Trời, phục vụ tận tâm quá, chắc tôi phải “boa” cao hơn một chút mới phải đạo.
– Dạ, được vậy thì tôi mừng lắm.
“Ừ, mày ăn hai đầu mà sao hổng mừng được.” Nghĩ vậy, song Chí Công không bộc lộ sự bất mãn ra bên ngoài, trái lại y cố tỏ vẻ rất vui mừng vì được phục vụ tới tận răng.
– Mấy đứa, cái thằng kia có giống cha bây hôn?
Người con trưởng của lắc lắc cái đầu chôm chôm của mình:
– Ôi… Người giống người mà mẹ.
Đứa con gái Út trấn an:
– Anh Hai nói phải đó mẹ.
Riêng con nhỏ Ba và thằng Tư là không ừ hử gì. Kể từ ngày biết bản thân không phải con ruột của Lê Hoài Sang, họ đã bị mẹ đẻ ép phải tìm và diệt con trai của ba nuôi phụ với bà ta. Song họ không lấy gì làm e ngại như mẹ đẻ, bởi ba nuôi đã chết thì lấy đâu ra ADN để mà xác nhận cha – con chứ?
Chí Công nghe nói có món nhum nên nhờ anh bồi đi lấy giùm một dĩa. Người khách ngồi mé tay phải y cũng biểu lấy cho mình một dĩa y vậy. Anh bồi lật đật đi lấy liền.
Thấy người trai xa lạ không bị hề hấn gì khi ăn đồ biển thì bà vợ lớn trong bụng mừng thầm, nhưng mừng thì mừng chứ chưa bớt lo mấy. Bà tính chước sẽ mướn người lục tìm hồ sơ y tế của con vợ bé của thằng chồng để coi coi nó có bị dị ứng hay mắc bệnh di truyền không, đặng mà phòng ngừa “hỏa hoạn”.
Sau bữa ăn căng thẳng như vào phòng thẩm vấn, Chí Công trở lên phòng nghỉ ngơi. Do ăn nhiều hải sản nên bụng của y bị lâu lư rất khó chịu, y bèn mở ba-lô lấy ra vỉ thuốc “ăn không tiêu” mà uống hai viên cho êm dạ.
Vừa nhìn màn mưa trắng xóa, Chí Công vừa khoanh tay trước ngực mà nghĩ ngợi những sự ngẫu nhiên không hề tình cờ xảy ra nguyên một ngày nay. Tự dưng y e có người nào đó đứng sau giựt dây đặng phanh phui chuyện gì đó, có hoặc không liên quan tới y, nhằm đạt mục đích có lợi cho mình. Rốt cuộc đấng sinh thành của y là ai? Hiền hay dữ? Ác hay tốt? Còn sống hay đã quy tiên? Những câu hỏi ấy vô cùng đơn giản mà tại sao chẳng có ai biết hay sẵn lòng trả lời cho y nghe vậy?
Hốt nhiên, Chí Công nghĩ tới một người có thể cho y một đáp án để tịnh tâm.
Không quá mười phút, người kia đã bắt máy. Người đó nói trong tiếng ngáp:
– Gì vậy thằng quỷ?
– Mày ơi…
Nghe xong câu chuyện, Đức Hoàng dụi dụi đôi mắt cay xè rồi mới trình bày quan điểm của mình:
– Tao thấy rất kỳ lạ ở chỗ tao không kiếm được một tấm hình nào của ông Sang lúc ổng dưới ba mươi lăm tuổi.
– Mặt tao có giống ổng không?
– Không biết. Sau này ổng già ổng bị gout hay gì đó mà cơ thể phù ra nên mặt mày bị biến dạng hết.
– Mày nghĩ cha mẹ tao là ai?
– Nếu là ông Sang thì sao?
Đôi mắt của Chí Công long lên:
– Tao sẽ đòi lại từng xu một. Hồi sống, ổng coi tao như con chó ghẻ. Thì chết, phải bù đắp lại cho tao.
– Mày lấy cái đách què gì mà đấu lại người ta? Đốt nhang lạy lục hay gì?
Không nghe Chí Công ừ hử gì, Đức Hoàng bèn nói cho nó nghe giả thuyết về nguyên nhân dẫn đến cái chết của Linh mục Vincent – Cao Nhật Trung. Hắn không tin một người đang mạnh giỏi bỗng nhiên lăn đùng ra chết như vậy.
Chí Công nghe tới đâu, sắc mặt y khó coi đến đó.
Trình bày xong giả thuyết của mình, Đức Hoàng khuyên thằng bạn đất đỏ:
– Kiếm đồng minh có thớ trước đi rồi hẵng tính tới chuyện đó.
Chí Công nghe vậy, ậm ừ vài tiếng rồi buồn bực tắt máy.
Nằm lăn qua lộn lại trên giường gần cả tiếng đồng hồ mà Chí Công không tài nào ngủ nổi. Y đành sửa soạn trang phục rồi đi vòng vòng tản bộ.
Thành phố Biên Hòa đêm nay yên ắng lạ thường, chắc có lẽ là do cơn mưa ban nãy. Những người sống lang thang ngủ phân tán ở dưới gầm cầu hoặc nương náu nơi hiên nhà thiên hạ. Có vài đứa nhỏ ôm cái túi cũ nát mà ngủ gà ngủ gật, trong đó là vốn liếng cho nghề bán vé số dạo của chúng.
– Đi xe ôm hôn cậu?
Dù muốn đi bộ hơn, nhưng thấy ánh mắt trông mong một sự đồng ý từ mình của ông chú, nên Chí Công tươi cười nói, “Có.”
Ông chú mừng rơn tíu tít đưa cái nón bảo hiểm, còn phân trần rằng cái nón này được lau chùi, giặt giũ và phơi nắng hàng tuần nên xin người trai trẻ đừng sợ dơ tóc.
Chí Công đưa cho ông chú một tờ một trăm đồng mới cắt chỉ. Rồi biểu ông chú hãy kiểm tra thiệt – giả trước khi chở y đi.
Ông chú bèn lấy cây viết thử tiền thiệt – giả ra bấm vài lần, rồi cười rộ lên mà mời người trai trẻ lên xe ngồi.
Phần đông thành phố Nước Việt nhỏ như lòng bàn tay, thành ra chỉ cần đi một chốc là biết hết trơn đường sá ở đó. Nếu gặp tài-xế, lơ-xe và bạn đường hiếu chuyện cũng như rành rẽ lịch sử tỉnh nhà, chúng ta sẽ được đọc sách không bằng mắt nhìn mà thông qua trí tưởng và đôi tai. Chí Công may mắn gặp được con trai của một chứng nhân lịch sử nên đã biết được vô số mẩu chuyện mà không ai dám đề cập đến hay tham gia luận bàn.
Từ quán cơm tấm nhộn nhịp bên kia đường, vọng ra tiếng ca của Elvis Phương và “Phượng Hoàng band” trong bài “Đêm dài” của nhạc sĩ đất đỏ Nguyễn Trung Cang. Có những người đã nằm xuống mà tên tuổi và tác phẩm của họ vẫn sống mãi theo dòng luân chuyển của thời gian.
Nghe hết bản nhạc, Chí Công cất giọng hỏi ông chú:
– Tới nhà chú chưa chú?
Ông chú chỉ vô con hẻm nằm bên kia đường:
– Rồi cậu. Quẹo vô cái hẻm bên kia kìa.
– Vậy cho con xuống đây đi chú. Con sẽ đi bộ về.
– Í, đâu có được, lỡ mấy thằng xì-ke nó làm bậy thì sao?
Chí Công vừa bước xuống xe vừa cười cười lắc đầu mà biểu, “Không sao.”
Ông chú đành để cho người trai có cái răng khểnh đi bộ về, dù trong lòng canh cánh lo âu.
Vượt qua quán cơm tấm đông khách, Chí Công trở về với vùng yên lặng của màn đêm. Xung quanh nhà cửa đóng im ỉm, leo lét ánh đèn đường, vất vưởng vài con chó hoang đi bươi thùng rác và mèo hoang gọi nhau. Tiếng bước chân của y vang vọng rõ mồn một trong buổi khuya thanh vắng. Thỉnh thoảng mới có mấy chiếc xe đạp, xe gắn máy và xe tải chạy ngang qua, khuấy động không gian u tịch một chút.
Gần tới sân banh vắng hoe, Chí Công dừng lại và ngửng mặt lên trời mà hỏi:
– Mấy người bám đuôi tôi đủ chưa?
Hai người đàn ông mặc thường phục bước xuống khỏi chiếc xe gắn máy phân khối lớn, rồi một trong hai gã hất cằm nói:
– Ông chủ tôi muốn nói chuyện riêng với cậu.
– Đé* quen biết thì gặp làm con c** gì.
Thấy người trai có gương mặt thư sinh ăn nói bỗ bã như vậy, hai người đều hết sức ngạc nhiên vì chủ nhân của họ bảo rằng cậu này là một người ôn văn nho nhã.
Người còn lại lên tiếng:
– Chỉ là ngồi nói chuyện chơi thôi mà.
Bỗng đâu, Chí Công cảm thấy nhói đau ở sống lưng.
Đồng bọn của hai người đàn ông thúc họng súng vào lưng Chí Công một phát đau điếng để cảnh cáo.
– Nè, làm gì đó?
Đáng ra ba không coi một ra gì, vậy mà ba người đàn ông kia vừa nhác thấy mặt ông chú “Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng” thì liền lùi lại rồi mau chóng rút lui.
Dù rằng nửa tin nửa ngờ, nhưng Chí Công vẫn cúi đầu cảm ơn ông chú có khuôn mặt xương xương.
– Ăn sing-gum không?
Chí Công giơ tay khước từ.
Người đàn ông đó bèn cho tép sing-gum vô miệng nhai. Hương thơm bạc hà thoang thoảng thật dễ chịu và sảng khoái.
Nhai đâu được mấy lần, người đàn ông đó ngỏ ý đặt xe taxi giùm Chí Công.
Lại một lần nữa, Chí Công lắc đầu từ chối.
– Xe do bạn tôi lái an toàn hơn nhiều. – Ông chú nhún vai chán chường. – Thôi, tôi để cho cậu tự sinh tự diệt vậy.
Nói xong, người đàn ông lạ mặt băng qua lộ rồi bỏ đi một hơi về hướng ngược chiều với Chí Công: Y đi thẳng để về trung tâm thành phố Biên Hòa, còn chú kia ra “vùng ngoại ô”.
Đi được một đoạn, người đàn ông đó gọi điện cho anh bạn thân để nhờ người này tới chở Chí Công về. Anh chỉ giúp cậu ta được tới đây thôi, phần còn lại phó thác cho âm đức của Cửu Huyền Thất Tổ nhà cẩu.
oOo
– Chúng ta có khách nữa rồi… Khách lần này nơi ngộ, là Cha xứ mà buồn tình.
Nói đoạn, Trì Thương quày quả xuống nhà sau pha trà và cắt bánh pía.
Nhóm huynh đệ của Tăng sĩ tên Thảo tiếp tục thọ thực. Mỗi người đi một phương nên các món ăn nhận được không giống nhau, vì vậy Châu Lợi biểu ai ăn được cái gì thì sớt món đó vô dĩa của mình. Thủy Diệu và Hoàng Kỳ hết sức mừng rỡ do hai người không ăn được đồ kho và mắm.
Nhác thấy Thanh Liên bước vào, Hoàng Kỳ cất giọng pha trò:
– Son môi gì mà màu đẹp dữ vậy hả Thầy Sen Xanh?
Thanh Liên giơ mấy chùm trái dại lên mà tươi cười giới thiệu:
– Trái trâm á. Ăn hôn Cờ Vàng?
– Dạ ăn, năm nào nó vô mùa tôi cũng thấy nhưng hổng dám ăn.
Thủy Diệu cũng xin một chùm.
Không có ai trong số hai thầy tu ngoại quốc ăn được thứ trái cây của vùng năm non bảy núi này.
Hỷ Tín đã xuống nhà thương bên Châu Đốc thăm khám và điều trị, chắc phải mất hơn nửa tháng nữa mới về núi, thành ra nguyên đoàn sống rất thoải mái và tự nhiên như ngày xưa.
Qua Chính Ngọ, mỗi người Tăng sĩ tản ra làm việc riêng. Người thì đi rửa chén, kẻ thì vô rừng tọa thiền tĩnh tâm. Chút huyên náo của buổi thọ thực mau chóng nhường chỗ cho thanh âm của chốn núi non trùng điệp và hùng vĩ.
Bên dưới chân núi, chiếc xe đò hai mươi lăm chỗ ngồi dừng bước ở một gốc cây gáo trĩu trái.
Sau khi nhận lấy hành lý cất ở cốp xe, Stephen Đoàn bắt đầu đi bộ lên trên núi. Vai trái anh quải ba-lô, tay phải kéo cái va-li mới mua vào hôm Thứ Bảy tuần trước và tay trái cầm cầm cây gậy chống để sải bước dễ dàng hơn.
Đường lên trên đỉnh tuy xa nhưng không mấy khó đi vì đã được phát quang làm lộ rất gọn. Tuy vậy không thiếu rắn, rít và những loài côn trùng độc, nên Stephen Đoàn đi được một đoạn thì phải ngừng lại một đoạn để ngó quanh quất đề phòng. Đôi lúc anh gặp vài nhóm hành hương của những ngôi chùa lân cận trên này; có người còn vẫy tay chào anh và hỏi han mấy câu vô thưởng vô phạt, anh cũng tươi cười trả lời lại rõ ràng. Không thiếu những đứa trẻ nhân lúc nghỉ Hè mà lên đây săn bắn hay chơi mấy trò trốn tìm ú tim; thấy anh đi lâu lắc quá nên có đứa liến khỉ chạy vọt lên trước mặt rồi căng mặt – lè lưỡi bẹo gan anh, anh chỉ biết cười xòa rồi vẫy tay chào nó, đoạn hỏi, “Mấy đứa có muốn ăn bánh kẹo không?” Xấp nhỏ liền mau mắn chạy lại rồi xòe tay xin. Anh phát cho mỗi đứa một gói chocolate của nước Đức đến từ hãng “Ritter Sport”, vị Cocoa Mouse, Cornflakes và Raisins Hazelnut; rồi khuyên nên chia nhau mà ăn để được nếm nhiều loại hơn. Nhưng chúng có tám đứa thì làm sao mà chia được nên chúng rủ anh ăn chung. Anh vui lòng chấp nhận.
Nhờ chuyện này mà Stephen Đoàn được xấp nhỏ dẫn đi đường tắt, do đó anh chỉ mất không quá một tiếng mà đã lên được trên đỉnh.
Chia tay với xấp nhỏ bản địa dễ thương, Stephen Đoàn độc bước đi tiếp chặng đường còn lại. Theo như sự chỉ dẫn của thằng nhỏ người Miên, chỉ cần vượt qua rừng thốt nốt vô chủ rồi quẹo sang phải là thấy liền cây bồ đề sum sê, đó, tịnh thất nằm khuất sau cái cây khổng lồ đó đó.
Đến nơi mới hay đây là sân sau của tịnh thất. Có một cái nóp nhỏ dựng bên bụi bông dạ lý hương, bên ngoài nóp để mấy cái gù đựng đầy cây thuốc Nam tươi rói, chắc là chủ nhân hái xong thì mệt nên ghé đây nghỉ ngơi trước khi xuống núi.
Tiếng hát của song ca Hoàng Oanh – Nhật Trường trong bài “Truyện tình Lan và Điệp” của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng, trong bài này ba ông ký tên là Mai Thiết Lĩnh – Mạc Phong Linh, vang lên nơi sân sau ngôi tịnh thất vô danh đã khiến bước chân của Stephen Đoàn chùn lại.
Cũng như rất nhiều người “trông mặt mà bắt hình dong” khác, ông lão hái thuốc Nam vội vàng la làng lên báo động. Tiếng hô hoán của ông làm chàng Linh mục xấu trai rất đau lòng, anh kéo sụp cái nón kết mà cô Xuân tặng cho hôm bữa xuống dù biết rằng không thể giấu hết được khuôn mặt khó coi của mình.
Hai thế giới tương phản tự nhiên mở ra khi Thủy Diệu có mặt. Chú niềm nở mời ông lão và Stephen Đoàn vô ăn bánh pía và thưởng trà.
Vốn dĩ không hảo ngọt nên Stephen Đoàn chỉ ăn vị bụng hai miếng, phần còn lại ông lão ăn hết. Ăn uống xong xuôi, ông lão tự giác cáo lui, nhường lại không gian cho nhóm Tăng sĩ và chàng Linh mục chuyện trò.
Nhưng Trì Thương khuyên hãy để Stephen Đoàn tắm rửa, nghỉ ngơi cái đã rồi hẵng hàn huyên sau cũng không muộn.
Vậy là Stephen Đoàn theo chân Phú Lâm xuống nhà sau tắm rửa và soạn lại phòng ngủ.
Căn phòng có cửa sổ trổ về hướng một chỏm núi nào đó mà Stephen Đoàn không biết tên; nơi đó mây giăng trắng xóa nhưng không thể che mờ hết màu lam của chóp núi. Nhìn xuống chân tường ở ngoài, một bụi hoa dại mọc lên cao đụng phần viền của khung cửa sổ. Ngó nghiêng quang cảnh một hồi, anh mới để tâm quan sát chỗ ngủ của mình: Một manh chiếu mỏng, một cái gối kê đầu, một cái gối ôm, một cái mền, một cái mùng và một cái nệm mỏng – chắc dùng để đắp thêm nếu trời khuya trở lạnh hoặc lót nằm cho êm lưng; ngoài ra còn một cái sào đồ bằng cây tre, bên dưới lắp thêm bánh xe đặng dễ bề di chuyển nó theo ý muốn của mình.
– Lát nữa Hoàng Kỳ sẽ khiêng cây quạt không cánh qua. Nên anh đừng có sợ nực nha?
Stephen Đoàn mỉm miệng cười, rồi gật đầu và nói lời cảm ơn.
Phú Lâm chắp tay nói, “Sadhu.” Rồi xin phép cáo lui. Trước khi ra khỏi phòng, chú không quên đóng cửa lại.
Stephen Đoàn máng mấy bộ thường phục lên cái sào tre, rồi mới soạn đồ đi tắm.
Ra khỏi phòng, Stephen Đoàn nhìn thấy mẩu giấy nhắn dán ở cửa nhà tắm. Nét chữ thật đẹp và sắc sảo. Về phần nội dung, nhóm Tăng sĩ dặn họ phải vào rừng tọa thiền nên không thể ở lại tiếp đón anh được, đồ ăn – thức uống chỉ toàn món ngọt nên khuyên anh hãy xuống núi kiếm món khác mà ăn, ngoài ra họ còn ghi số điện thoại của một tài-xế Uber rất thông thạo vùng đất An Giang và hết sức hiếu khách để anh khỏi bợ ngợ khi đặt xe.
Tắm rửa và gội đầu xong, thay vì cho xe lên đây đón mình, Stephen Đoàn lại đi ngắm cảnh vòng vòng mấy bận rồi mới xuống dưới kiếm cái gì bỏ bụng.
Ngồi dựa lưng vào gốc cây tra mọc gần sườn núi, Stephen Đoàn đưa khẩu cầm lên miệng thổi bài “L’amour, c’est pour rien” của ca – nhạc sĩ Enrico Macias, nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt với tựa đề “Tình cho không biếu không”. Đây là một trong những tình khúc thế giới diễn tả về Tình Yêu hay và đầy đủ nhất.
Lúc bấy giờ nắng hanh hang vàng, gió thổi hiu hiu, lá cây lao xao trên những tán cây già cỗi, bướm – ong đùa với những khóm hoa dại mọc rải rác quanh đây. Chắc có lẽ mây sà xuống thấp nên Stephen Đoàn có cảm tưởng tay của mình có thể với tới trời. Nền trời xanh ngọc, dãy núi xanh lam, những cánh đồng dưới chân núi màu xanh mạ non, rừng thâm u xanh đậm, bãi cỏ sạm xanh nhung; lớp lớp lang lang, trùng trùng điệp điệp sắc xanh vây lấy chàng Linh mục đa sầu đa cảm, làm hồn anh lắng xuống, mắt anh ngời lên nét vui sướng và thư thái khôn nguôi. Cảnh vật hữu tình, tiếng đàn réo rắt du dương ru hồn những khách nhàn du vào một miền uyên nguyên xinh tươi, tuyệt diệu; ai nấy lắng nghe xong hết khúc nhạc thảy đều nán lại đợi coi anh có biểu diễn thêm không để mà được thưởng thức tài thổi harmonica của người nghệ sĩ vô danh ấy.
Không phụ lòng mong mỏi của nhóm khán giả “rất tình cờ” đó, Stephen Đoàn thổi bài “Sealed with the kiss” của đôi nhạc sĩ Peter Udell – Gary Geld. Nhạc sĩ Trường Hải đặt lại lời Việt với tựa đề “Hạ vàng – Biển xanh”, còn nhạc sĩ Trường Kỳ là bài “Tình yêu trong đời”; bài sau được ca sĩ Trung Hành hát khá hợp giọng.
Bỗng nhiên trời rùng mình một cái, sắc xanh tươi tắn ban nãy đã nhuốm màu áo tang u ám. Gió bắt đầu nổi lớn, báo hiệu một cơn mưa dông sẽ đến tức thì.
Cũng như bao người khác, Stephen Đoàn cũng hối hả đi tìm chỗ đụt mưa.
Vốn tính không ưa chốn “hý trường” nên Stephen Đoàn lặng lẽ quay gót đi. Anh trở về tịnh thất đụt mưa, còn những người kia í ới gọi nhau về các lán trại họ dựng ở bìa rừng. Chỉ duy một người đeo cái túi trên lưng là không đi theo đoàn của mình, anh ta bước theo chàng Linh mục trong sự lặng câm tuyệt đối.
Xuyên qua rừng cây thốt nốt tươi tốt, vòng quanh những ngã rẽ đầy hoa thơm cỏ dại, giữa hai người vẫn chẳng có ai thốt lên một lời nào. Mưa đã lất phất bay, từng giọt nặng hạt làm da mặt của họ hơi ran rát và đôi mắt thì cay xè. Nhưng người khách nhàn du xa lạ vẫn kiên nhẫn bám gót Stephen Đoàn. Tiếng gót giày của đôi bên nện xuống đất như lọt thỏm giữa một vùng thâm lâm, thoang thoảng hương thốt nốt chín muồi hòa lẫn với mùi mưa và hơi đất ngai ngái.
Chừng thấy ngôi tịnh thất, anh ta mới lên tiếng hỏi:
– Anh có biết nhạc của Lê Uyên – Phương không?
– Biết.
– Yêu nhau thắm thiết cách mấy rồi cũng bị cái chết chia lìa thôi phải không anh?
– Có thể họ sẽ gặp lại nhau ở trên Thiên Đàng.
– Nếu như đối phương thay lòng đổi dạ trước khi chết thì sao?
– Thì thôi.
Anh ta bật cười, rồi vừa xoa lòng bàn tay của tay này vào tay kia vừa nói:
– Thì Nguyễn Tất Nhiên và Phạm Duy có nói rồi mà, “Chỉ chừng một năm thôi, là quên lời trăn trối…”
Rồi anh ta chợt ngỏ ý muốn nghe Stephen Đoàn hát thử, vì tiếng nói của anh hay quá nên anh ta đoán rằng chắc anh ca sẽ hay.
Stephen Đoàn gật đầu đồng ý.
Anh ta liền lấy cái túi xuống, rồi lấy ra một cây guitar thùng rất cũ. Đoạn nói:
– “Bài không tên số Sáu” của nhạc sĩ Vũ Thành An. Rất dễ hát.
– Chỉ có chính nhạc sĩ ca bài này là hay thôi.
Anh ta gật đầu đồng tình.
Trời đột ngột đổ mưa thật lớn. Hai người nhìn nhau cười xòa rồi không hẹn mà cùng chạy đua vô nhà sau của ngôi tịnh thất.
Dù rất khát nước và đói bụng, nhưng anh bạn mới quen không dám rớ tới cái tủ lạnh hay gạc-măng-rê.
– Không sao đâu, anh cứ lấy ăn đi. Họ để lại giấy nhắn nè.
Đọc xong tờ giấy nhắn được dằn dưới cái triện để trên bàn bếp, anh ta mới dám mở tủ lạnh tìm coi có nước chi ngon ngon để uống không. Rồi hân hoan khi thấy một lốc Coca sáu lon, mấy lon nước tăng lực, một chai trà gạo Đại Hàn dung tích một lít rưỡi và một bình nước sâm bí đao.
– Anh uống gì? Tôi là uống Coca rồi đó. Có đá cục nữa. Đã quá.
– Tôi uống trà gạo. Khỏi đá. Mà…
– Sao?
Stephen Đoàn nheo mắt hỏi:
– Anh có quen tôi không mà đi theo te te vậy?
Anh ta phì cười:
– Trời, tôi là con cháu của Cậu Bảy đây. Lần trước ghé Giáo xứ thăm mộ Cậu có thấy anh mần cỏ ở đó nên mới an tâm mà đi theo đó chớ.
– Vậy ra anh theo Đạo Cao Đài?
Uống xong một ngụm lớn Coca đá, anh ta mới đáp:
– Phải.
Nói đoạn, anh ta lướt những ngón tay trên dây đàn guitar. Bản nhạc đó bắt đầu thành hình.
Stephen Đoàn cất giọng hát bài “Đôi khi hạnh phúc buồn” của đôi uyên ương một thuở Lê Uyên – Phương, không mấy khó khăn để anh nhận ra tình khúc trên là của ai vì điệu Tây Ban cầm trong bài hết sức độc đáo.
– Anh có biết bài “Đồng xanh” do nhạc sĩ Lê Hựu Hà đặt lời Việt từ bài “Green fields” của bộ ba Richard Dehr, Terry Gilkyson và Frank Miller không?
Stephen Đoàn cười mà nói:
– Biết, tôi thường nghe Duy Quang và Don Hồ ca bài này.
Anh ta nháy mắt cười duyên:
– Vậy chúng ta “trình diễn” nghen?
Chuyện vãn và hát hò một lát thì trời đã tạnh mưa. Anh bạn mới quen rủ Stephen Đoàn xuống chợ Tri Tôn ăn bánh canh bò viên với mình. Anh vui vẻ ưng thuận, rồi đặt taxi thông qua ứng dụng Uber.
Trước khi lên xe, hai người “xu” ba cái bánh ú tro nhưn mặn và ba chai nước suối ướp lạnh, phòng hờ lúc cần có thứ trám bụng.
…
Đến tận khuya lơ khuya lắc, Stephen Đoàn mới lọ dọ trở lên núi. Đáng ra anh đã về sớm, nhưng vì gia đình người Chăm cầm chân lâu quá nên giờ này mới về được; nhờ có gia đình hiếu khách đó mà chàng Linh mục đã hiểu thêm về Đạo Hồi và biết nhiều hơn về văn hóa Champa.
Những con chó hoang đang nằm chơi dưới gốc cây tra trổ bông đỏ rực. Cái nắng oi ả của ngày tàn hãy còn lưu lại trên vùng núi Cô Tô, khiến con nào con nấy le lưỡi dài cả thước nhìn thiệt tức cười. Ban nãy sợ tụi nó khát, Thủy Diệu đã để sẵn một cái thau đổ đầy nước cho tụi nó uống.
Vừa ngắt một chùm trâm tím rịm, Stephen Đoàn vừa nhớ đến người mẹ đã khuất núi của mình, lòng miên man buồn…
– Tâm hồn anh giống mẹ, còn khuôn mặt anh giống ba.
Trì Thương đã đứng sau lưng Stephen Đoàn tự bao giờ mà anh chẳng hay biết.
– Chẳng qua, ba anh muốn ruồng bỏ anh do tin anh đem lại sự xúi quẩy cho ổng chứ đâu phải cho rằng anh là Quả Báo của ổng.
Stephen Đoàn bặm môi nhìn người Tăng sĩ mi thanh mục tú.
– Nếu như thực sự thương mẹ anh, ổng đừng nên đem bịnh tình của bà ra để mua chuộc sự thương hại và tin tưởng của người khác hòng dụ dỗ họ cho nội tạng.
Stephen Đoàn nhếch miệng cười khan:
– Tại sao anh Thảo lại biết?
Trì Thương cũng nhếch miệng cười mà đáp:
– Bởi vì tôi chính là cái người đã bị ba anh và đồng bọn bắt cóc cách đây ba mươi năm. May phước cho tôi đã được huynh trưởng cứu mạng. Tôi cũng không bao giờ quên những gì mà ổng đã nói với đồng bọn về hai mẹ con anh và những con mồi mà họ đã săn lùng được.
Stephen Đoàn bẻ gãy cành trâm, rồi vùng la lên:
– Nói láo! Tôi tin ba tôi có thể sống khốn nạn với người ngoài, và thậm chí với cả tôi. Nhưng không thể nào tàn tệ với mẹ tôi được, bà…
Trì Thương nhìn cành trâm nằm dưới bãi cỏ mà từ tốn trình bày:
– Anh tin ba anh thương mẹ anh vì ổng đi đổ bô cho bà, lo từ miếng ăn tới giấc ngủ, mẹ anh cần gì ổng cũng đều chiều theo hết. Nhưng anh không thấy cảnh ba anh chế thuốc độc vô ly nước của mẹ anh để bà chết dần chết mòn hòng giết người diệt khẩu, do mẹ anh muốn tố cáo ba anh với cảnh sát vì những tội ác mà…
“Bốp.”
Cũng may Trì Thương đỡ kịp, nếu không cái bạt tai như trời giáng của Stephen Đoàn đã in hằn trên gương mặt chú. Mấy con chó nghe động co giò bỏ chạy hết.
Trì Thương vừa gạt tay của Stephen Đoàn xuống, vừa nói:
– Anh có điều răn của Chúa, tôi có giới luật của Phật. Dẫu bên nào thì việc bao che cho tội ác và nói láo cũng là chuyện đáng lên án hết.
– Anh muốn tôi giết ba mình?
– Tôi không biểu anh giết ba anh. Tôi chỉ nói ra Sự Thật cho anh nghe. Hết.
– Tôi sẽ buông bỏ đức tin của mình xuống mà hỏi anh một câu…
– Anh muốn biết hậu vận của ba anh ra sao?
– Phải.
– Ổng không bị gì hết.
Stephen Đoàn ngửa mặt cười lớn. Hai hàng lệ nóng rẫy cứ thế thi nhau chảy xuống theo nhịp rung của cơ thể anh. Anh hỏi:
– Bên Phật anh tin có Quả Báo, vậy sao…
– Vì hết nợ rồi. Nghiệp kiếp trước, kiếp này trả xong. Mẹ anh cũng chẳng muốn dằng dai với ba anh nên không còn lưu lại báo oán nữa.
Stephen Đoàn vẫn vừa khóc vừa cười:
– Giả thuyết đó hay lắm.
Với sắc diện lạnh như tiền, Trì Thương nói:
– Phải, hãy tin mẹ anh đang ở trên Thiên Đàng.
Stephen Đoàn chỉ tay lên trời mà cười biểu:
– Tôi lúc nào chẳng tin như vậy. Mẹ tôi có gây ra tội tình gì mà phải ở Hỏa Ngục hay nán lại nơi đây chứ?
– Còn anh thì đang tự mình đọa vào Địa Ngục A-Tỳ.
– Ý anh là sao?
– Anh không thương cô Xuân. Anh chỉ coi cổ là hiện thân của mẹ mình, vì cái cách cổ thương và yêu chiều anh y hệt như mẹ anh.
Stephen Đoàn vòng tay trước ngực:
– Vậy theo anh, Tình Yêu là gì?
– Chắc có lẽ giống như anh Hai tôi yêu Hoàng Lan và Hoàng Lan yêu tôi.
Nói đoạn, Trì Thương mời Stephen Đoàn theo mình đến hồ nước nói chuyện.
Cái hồ này nằm khuất sau một vách đá cao cỡ ba mét mấy. Trên vách cây thuốc Câu Đằng bám đầy; theo lời kể của người Tăng sĩ thì khi tới chánh vụ từng chùm bông sẽ nở tròn vo như trái cầu nho nho, đo đỏ trông thật đẹp mắt. Vài con cắc ké màu da đá bò lên bò xuống bức vách thiên nhiên, kêu lên những tiếng tặc lưỡi nghe sao buồn thảm não.
Stephen Đoàn ngồi ở hòn đá cạnh hồ nước, còn Trì Thương thì đứng tựa vào vách đá. Đôi bên cách nhau chỉ một cái hồ nhỏ mà tâm tư cách biệt muôn trùng.
Trì Thương lên tiếng trước:
– Tôi có biết một nữ thí chủ bị mắc chứng bịnh “Rối loạn ám ảnh cưỡng chế – OCD”, cổ rất dễ chướng mắt và nổi sùng với những người ăn mặc bê bối hay đầu tóc bù xù; nhưng với người cổ yêu, cổ lại tha thứ hết tất cả: Người đó mặc âu phục xộc xệch, cổ không nói nặng lời. Người đó thích để đầu như tổ quạ, cổ còn lấy tay vò cho nó rối tung lên. Và người đó yêu cổ, dù người đó không thích một đứa con gái chỉ cao không quá mét sáu; nhưng khi nhìn cổ, người đó lại thay đổi ý kiến và cho rằng cổ cao như vậy là đủ rồi, không cần mang guốc hay giày cao gót. Cả hai không yêu vì đối phương đối xử rất tốt với mình, mà vì họ chấp nhận con người thật của đối phương.
Stephen Đoàn him mắt nghĩ ngợi.
– Có phải anh đang muốn chữa trị cho Xuân phải không?
Stephen Đoàn gật đầu.
– Có một nữ thí chủ đã yêu đơn phương suốt mười lăm năm ròng, người mà cổ yêu là một người đàn ông lớn hơn cổ hai mươi tuổi. Khi cổ bị mọi người tẩy chay và quay lưng lại, người đàn ông đó thì thầm rằng, “Anh tin em. Anh tin mọi điều em nói đều là Sự Thật. Xin em đừng chết, vì anh không muốn thế gian bạc ác này mất thêm một Thiên Thần nữa.” Đối với cổ, lời an ủi ấy còn huyền nhiệm hơn mọi kinh sách trên đời, nhờ có nó mà cổ đã thôi nhen nhóm ý định tự sát và có niềm tin vào cuộc sống hơn. Cho nên, lúc mọi hàm oan được gỡ xuống, nhiều người trai trẻ bắt đầu ve vãn cổ, và người nào cũng bị cổ khước từ rằng, “Tôi có chồng rồi.” Dù rằng người đàn ông kia đã rời xa cổ mãi mãi, cổ vẫn nói người đó còn sống; nhiều người chế giễu hỏi vậy hiện thời người đó sống ở đâu, cổ đáp, “Trong tim tôi.”
Khi cổ nổi khùng, người đàn ông đó cười biểu, “Công nhận em lên cơn nhìn dễ thương thiệt. Rồi đói bụng chưa? Anh dẫn em đi ăn…”
Stephen Đoàn nhướng mày hỏi:
– Tại sao họ phải chia tay nhau?
– Người đàn ông đó nói rằng một thằng già như anh không thể mang lại hạnh phúc cho em được đâu, em nên tìm người khác thì hay hơn. Cổ mới biểu, nguyên văn nghen, “Không có một thằng chó nào xứng đáng được hưởng những gì mà anh đã giữ gìn và chăm bẩm nơi em.”
– Sao anh chưa từng yêu ai mà rành dữ vậy?
– Tôi cảm nhận về Tình Yêu thông qua những lần nghe các thí chủ giãi bày.
– Vậy trường hợp của tôi là sao?
– Anh không thương Xuân, mà là sợ mất Xuân. Mất ở đây không mang hàm nghĩa quyến luyến yêu đương trai – gái, mà là về sinh mạng. Anh sợ Xuân sẽ lìa đời khi hãy còn quá trẻ như mẹ mình nên tâm thức lầm tưởng rằng anh đã phải lòng Xuân.
Bao nhiêu vướng mắc và phiền não bỗng dưng tan biến hết. Stephen Đoàn chợt cảm thấy nhẹ nhõm khôn cùng. Thì ra là vậy. Anh không yêu Xuân, mà là sợ nàng chết.
Vừa hướng mắt nhìn vì sao băng sa xuống núi Tượng, Trì Thương vừa tâm tình:
– Không phải do kinh kệ bên Đạo Phật cao siêu hơn bên anh, mà là vì tôi trải đời nhiều hơn anh; còn anh tu học trong Dòng Kín rất nhiều năm, lại được sống trong vòng tay che chở và quý trọng của Giáo dân nên đâm ra anh không hiểu một vài chuyện và thứ tình cảm của kiếp người. Ngày nào tôi cũng đi khất thực, nhận đủ Hỷ – Nộ – Ái – Nộ từ chúng sanh; tự nhiên họ kiếm chuyện chửi mình, bỗng dưng họ xin mình ban phước và cho số để họ đánh đề, bất thình lình họ nói họ thương mình và muốn a ý với mình, đột ngột họ nghe ai đó nói mình thế này thế nọ rồi tới nhiếc mắng mình. Không dưng mà Đấng Thế Tôn lại khuyên chúng tôi nên tập đi kinh hành. Kinh hành là sao? Là đi để thấy mà trí óc không phán xét và nảy sinh Thất Tình – Lục Dục, Tam Bành hay Ngũ Uẩn.
– Tôi nên làm gì đây?
– Anh nên thử một lần trải chiếu nằm ngủ dưới màn sao giăng chi chít đi. Rồi anh sẽ tìm lại được Bản Ngã của mình.
– Tại sao?
– Vì trời cao không có phán xét, chỉ phô bày sự thành thật mà thôi. Hãy ngước nhìn lên, và anh sẽ tìm được đường về.
Nói đến đây, Trì Thương xin phép cáo từ.
Còn lại mình ên, Stephen Đoàn thổi bài “My heart will go on” rất nổi tiếng qua giọng hát của danh ca Celine Dion. Chuyện tình chú – cháu của hai con người kia đã làm cho anh thương cảm vô hạn.
Ngồi chơi đàn một hồi cũng mỏi miệng, đau lưng, Stephen Đoàn bèn ngả người trên thảm cỏ xanh mượt, đôi tay anh vòng ra sau đầu để làm gối tựa. Ánh đèn màu của chốn phồn hoa đô hội không lấn tới đây nên anh được thưởng lãm trọn vẹn bức tranh sao trên kia. Chung quanh anh, đom đóm lập lòe như những chiếc lồng đèn Trung Thu leo lét cháy. Có con cào cào nhảy lên trán anh và búng chân tanh tách, cái mùi ngồ ngộ trên cơ thể nó gợi cho anh nhớ những mùa vui ở Vĩnh Long bên hai đấng sinh thành; gia đình bên ngoại vốn thuần nông nên mẹ thường hay dắt anh ra bãi cỏ hay bờ ruộng mà đi bắt cào cào, thường thì hai mẹ con không bắt được con nào, ba anh thấy vậy mới lấy lá dừa tết thành con cào cào cho anh.
Thấy chàng tu sĩ đã ngủ thiếp đi, Thanh Liên bèn ngồi dựa lưng vào vách đá tọa thiền trong lúc chờ chàng ta tỉnh lại để dẫn về tịnh thất. Nhưng khuya nay, người Trưởng Lão tứ tuần không sao tĩnh tâm được. Chú buông xuống một tiếng thở dài nặng trịch, rồi ngửng mặt lên nhìn dải Ngân Hà đang hiện rõ mồn một nơi cao xanh.
Có thể do cuốc bộ trên núi suốt mấy tiếng liền nên Stephen Đoàn ngủ rất say, còn ngáy nho nhỏ nữa. Trời mỗi lúc một nổi gió lớn. Bộ thường phục không đủ giữ ấm cho anh nên anh dần chuyển sang tư thế cong người như con tôm cho đỡ lạnh.
Thanh Liên cởi bớt một lớp áo cà-sa, rồi lại gần và đắp lên người Stephen Đoàn. Sau đó tọa thiền tiếp.
oOo
Ông già Ba Tri rủ xấp nhỏ xuống nhà mình ăn cháo gỏi gà.
Xui cái đến nơi thì ông già trúng gió nên “bể hụi”, lại còn phải đưa ông già đi nhà thương trong vùng thăm khám và lấy thuốc, thằng nào thằng nấy chỉ biết cười khổ với nhau.
Trong lúc đợi ông già đi thử máu và chụp hình, anh Ba Hói biểu nguyên đám ra khu nhà chợ gần đó kiếm gì bỏ bụng.
Vừa hay có bà thím quảy hàng rong ngang qua nhà thương, Đức Hoàng liền rống họng gọi với lại.
Nhác thấy mâm bánh của bà thím, Xương Tuyết chỉ tay vô thứ bánh hai màu xanh – trắng mà giới thiệu:
– Đây là bánh đúc ngọt lá dứa chan nước cốt dừa, còn đây là bánh mặn miền Tây. Hồi còn nhỏ, mẹ tôi thường ngoắc bà bán bánh vô nhà mua cho anh em tôi và mẹ mỗi người một dĩa bánh quê ăn chơi. Hình như bà bán bánh không còn bán nữa, chắc có lẽ do tuổi cao sức yếu hay cạnh tranh không nổi với lớp trẻ nên phải chuyển nghề.
Anh Ba Hói gật gù:
– Bánh nào ra bánh đó, không có nhập nhằng.
Mua bánh xong, nguyên đám kéo nhau ra bậc tam cấp của khu nhà dẫn xuống bãi giữ xe mà ngồi ăn uống lót dạ. Tướng tá tám đứa không nhỏ nhoi gì nên không thể ngồi theo kiểu dàn hàng ngang mà phải ngồi theo kiểu trải dọc xuống cho đỡ áng đường đi của người ta.
Đức Hoàng hỏi:
– Cồn Phụng hay cồn Tân Vinh vậy anh Tuyết?
– Cồn Phụng, hay còn gọi là cồn Tân Vinh, trước đây được chia làm hai phần: Nửa để Ông Hai cùng đồ đệ tu tập và nửa để bà con dựng làng lập xóm. Cho nên tôi hay gọi nửa phần đất mà Ông Hai từng sống là cồn Phụng, và nửa phần đất mà Ông dành cho bà con tới ở là cồn Tân Vinh, đặng dễ bề ghi nhớ dữ kiện lịch sử.
Hoài Việt hỏi gã điên có từng đi tranh luận với ai không.
– Nếu cứ ôm khư khư thần tượng thì sẽ chẳng bao giờ anh nhìn thấy Chính Sử. Tôi từng bàn luận lịch sử với vài người, hồi đầu cũng được và khách quan lắm, tới chừng đụng tới thần tượng của họ thì họ nhảy cẫng lên và chụp cho tôi theo phe này phe kia. Bàn luận lịch sử mà không nêu ra giả thuyết và mặt trái của nhân vật ấy thì làm sao tìm hiểu được căn cớ thành hình giai đoạn đó?
Ngoài ra, vì bị lửa giận ám đầu nên một hồi họ phạm lỗi ngụy biện “Làm được như người ta chưa mà nói” luôn.
Tôi thương Ông Hai cách mấy, tôi vẫn nêu ra chỗ bất hảo của Ông như thường.
Hoài Việt lại hỏi:
– Tôi thấy có người cho rằng dân ở đây không nên bán giống dừa cho nước ngoài. Theo anh, anh nghĩ sao?
– Tôi nhớ hồi xưa người Bắc vô Kiến Hòa sống đã từng đem giống dừa ở đây về ngoải để ương trồng. Kết quả: Nước chua lè chua lét, vỏ thì dày như bánh xe, còn phần cơm thì mỏng còn hơn miếng bánh tráng.
Rồi có người ở duyên hải miền Trung đem giống dừa ở xứ ổng vô Kiến Hòa ương trồng. Kết quả: Nước dừa rất ngon và ngọt.
Thổ nhưỡng ở xứ này hạp với cây dừa. Nên tôi chẳng sợ nước ngoài vô mua giống dừa đâu, bởi có đem về thì trồng cũng chẳng ngon bằng trồng ở xứ này.
Đức Hoàng nói:
– Vậy là cũng giống như An Giang. Đất đai hạp với cây thốt nốt.
Xương Tuyết lại tiếp:
– Mà có mua luôn đất ở đây đem về đâu ương trồng đi chăng nữa cũng không thành công. Vì đất ̉đai gắn liền với các tầng địa chất, chứ không phải chỉ là một lớp trên bề mặt mà mắt có thể nhìn thấy.
Tống Ngạn mỉm cười:
– Có những thứ không bao giờ có thể tước đoạt được phải không anh Tuyết?
– Phải.
Rồi quay sang nhìn Khán Bình, Xương Tuyết thuật chuyện:
– Ba tôi kể hồi xưa có mấy gia đình từ Huế xuống Kiến Hòa tản cư, sáng ra gặp mấy nữ sinh trong gia đình đó cắp sách tới trường, ba tôi cùng bạn bè ưa ghẹo, “Mấy cô đi mô rứa?”; họ đáp lại bằng giọng miền Tây, “Tụi tui đi đằng đẵng á.”
Cái tiếng Huế đó nghe một lần khó quên lắm. Nó êm đềm như dòng Hương Giang và nên thơ như màu trời Thần Kinh lúc rạng ̣đông. Không biết vật đổi sao dời có làm mai một hay biến cải đi thanh âm đó không nữa…
Ông già Ba Tri gọi điện hỏi nguyên đám đang ở đâu rồi. Anh Ba Hói thưa rằng nguyên đám đang ngồi ở khu nhà có bậc tam cấp dẫn xuống bãi giữ xe. Ông bèn dặn, “Tụi bây ngồi đó chờ tao. Tao sắp ra rồi.”
– Ổng sợ tụi mình bỏ ông bơ vơ nên dặn hờ.
Nguyên đám cười rần.
Xương Tuyết bỗng chỉ vào bậc tam cấp:
– Mấy anh có biết tại sao cầu thang lại phải làm theo số lẻ không?
Không ai trả lời được câu hỏi của gã điên.
– Tại vì đi lên sẽ thuận chân và an toàn hơn là làm số chẵn. Mấy anh cứ thử bước lên bậc tam cấp và bậc tứ cấp là biết liền.
– À…
– Nhưng hễ nói là do ông bà chỉ biểu thì lập tức có rất nhiều người chê bôi là lạc hậu, rập khuôn, thời nào rồi mà còn mê tín dị đoan; còn kiến trúc sư hay kỹ sư xây cất nói là lập tức tin răm rắp.
Họ không hiểu về phong thủy thành ra họ cứ nghĩ phong thủy là mê tín dị đoan, nhưng hỏi mê tín ra sao – dị đoan chỗ nào thì họ lại lái sang các hình thức cúng sao – giải hạn, này nọ nọ kia.
Chẳng qua, người thời xưa ưa xài điển cố và câu cú văn vẻ nên nếu chỉ nghe sơ qua là hiểu lầm mê tín dị đoan liền.
Thí dụ như người xưa khuyên không nên để cây xà bắc ngang qua giường ngủ, thay vì nói đơn giản là nếu không may rớt xuống nó sẽ đè chết mình hoặc khiến người nằm trên đó hay gặp cảnh bất an không ngủ được, họ lại ghi thành “Huyết trâm sát” hoặc những thành ngữ hoa mỹ khác.
Khán Bình hỏi:
– Còn về các phương hướng thì sao anh Tuyết?
– Rất dễ hiểu thôi. Phòng khách nên ở hướng Nam, nhà bếp nên ở hướng Đông, cầu tiêu – nhà tắm hay nơi giặt giũ nên ở hướng Tây, còn nhà kho hay nhà để xe nên ở hướng Bắc.
Thương Hận yêu cầu Xương Tuyết giải thích thêm.
– Tức là vầy: Với những nơi uế tạp hay thường xuyên ẩm mốc do sử dụng nước hằng ngày, nên xây theo hướng Tây, Tây – Bắc và Tây – Nam, vì phương vị này nắng rất gắt nên sẽ giúp diệt vi khuẩn, các thành tố có hại trong không khí và làm cho không gian trong phòng hay khu vực mau khô. Còn hướng Đông, Đông – Bắc và Đông – Nam cho gian bếp và phòng ăn là bởi nhằm giúp đồ ăn – thức uống giảm tình trạng oi thiu do bị nắng chiếu vào, ngoài ra cũng là để ngồi ăn ngon miệng hơn do bớt nóng nực. Nhà kho hay nhà để xe ở hướng Bắc đặng cản gió lạnh ban đêm lùa vào nhà. Còn phòng khách ở hướng Nam là để đón ánh sáng vào nhà nhiều hơn mà không quá gay gắt như hướng Tây.
Ngừng lại để uống một ngụm nước cho thông giọng, gã điên mới tiếp:
– Có nhiều người thời nay bày đặt cấp tiến, đụng đâu cũng úp sọt “mê tín dị đoan”, “ảnh hưởng văn hóa Tàu”,…; hoặc mắc chứng bệnh “thuyết âm mưu”, “sự nhúng tay của thế lực ngầm có quyền có thế”,… đến nỗi cho rằng Đạo Phật là sản phẩm của giới thế lực ngầm đến từ Tây Phương!
Anh Ba Hói bình phẩm:
– Giả thuyết rất cần cho công cuộc tìm ra Chân Lý và Sự Thật. Nhưng bạ đâu cũng nêu ra thì lâu ngày dễ khiến mình bị tâm thần.
Xương Tiếp bổ sung:
– Chẳng qua thời xưa thường ưa mượn hình tượng muôn thú, sự tương phản của thiên nhiên và xài điển cố hoa mỹ cho khoa Phong Thủy nên dễ khiến hậu bối hiểu lầm.
Đức Hoàng hỏi:
– Vậy anh nghĩ sao về câu “Con gái là người tình kiếp trước của cha”?
– Người phát ngôn câu nói này chắc phải giỏi hơn Phật Tổ; vì Phật Tổ chỉ nói chúng sanh sau khi mất sẽ thác sanh vào một trong sáu nẻo Lục Đạo Luân Hồi tùy theo Nghiệp Lực và Duyên Nghiệp của mình, chứ không có trình bày một cách tỉ mỉ cho trường hợp nào trong sáu nẻo trên. Thí dụ như ai ở ác có thể bị đọa vào Súc Sanh và Ngạ Quỷ ở kiếp sau, chứ Đức Phật không có chỉ rõ rằng phạm tội này đầu thai thành con này, phạm tội kia đầu thai thành con kia,… như rất nhiều trang mạng xã hội đã đăng tải.
Đức Hoàng lại hỏi:
– Vậy người tốt có thể trở thành Chư Thiên không anh?
– Không chắc chắn. Có một người chỉ phạm đúng một tội đại ác trong suốt cuộc đời phước thiện của mình mà phải bị đọa Địa Ngục chịu hình phạt suốt một tuần, rồi mới được thác sanh vào Cõi Trời Đâu Suất, đó là hoàng hậu Mallikà – vợ của vua Ba-Tư-Nặc.
Tống Ngạn cười hỏi:
– Anh có tin vào Luân Hồi không?
– Có. Và ba tôi là bạn rất thân với nhân chứng sống đó. Số là vầy: Ông A và bà B lấy nhau đã lâu mà không có được đứa con hủ hỉ, bởi vì hễ đẻ được đứa nào là đứa đó lại chết yểu chỉ sau vài tháng chào đời. Một bà hàng xóm mới biểu hãy chặt ngón tay út của đứa con mới mất để đánh dấu; nếu đứa sau lành lặn thì vợ chồng ông không phạm phải “Con ranh – Con lộn”. Vốn xuất thân con nhà binh nên ông A đâu có cùn quằn hay do dự, bèn chặt một đốt ngón út bên tay trái của cái xác để làm dấu, xong đâu vào đó mới đem đi chôn cất. Chưa đầy nửa năm sau, vợ ông cấn bầu. Đứa bé gái sanh ra có bàn tay trái bị khuyết mất một đốt ở ngón tay út; và cũng như những lần trước, nó đã mất khi mới được vài tháng tuổi. Kể từ sau chuyện đó, ông biết rằng mình và vợ ăn ở với nhau thì sẽ không có con, nên đã bỏ bà mà đi lấy vợ khác. Quả đúng như trong suy nghĩ của ông, ông đã có con với người vợ sau, khỏe mạnh và lành lặn từ thể xác đến tinh thần.
Tôi không thể tiết lộ danh tính và địa chỉ của ông A – bà B được, nên ai muốn nghĩ tôi đặt chuyện để bảo vệ Thuyết Luân Hồi bên Phật Giáo thì tùy, tôi cũng chẳng cần ai tin.
Hoài Việt muốn hỏi một câu chuyên môn với gã điên, nhưng sợ rằng sẽ có phát sinh cãi cọ nên ngập ngừng mãi mà không thành lời.
– Hỏi đại đi anh. Tôi là cái thá gì mà phải sợ phật ý. Bàn luận chơi thôi mà.
– Vậy Việt Nam bây giờ đang theo chủ nghĩa nào?
– Chủ nghĩa “Tả-pí-lù”.
Ai nấy thảy đều hết sức sửng sốt. Chí Công còn giục gã điên giải thích.
Sau khi uống vài hớp nước suối, Xương Tuyết trình bày như vầy:
– Chuyện chính trị, an sinh xã hội, mở mang tri thức, làm nông,… thì không có mấy người tham gia thảo luận; toàn là thảo luận về đề tài yêu đương, phim ảnh, giới giải trí,… Cái vế sau cũng là “tự do ngôn luận”, nhưng theo hướng nhiều chuyện chứ không giúp ích gì cho sự phát triển và thay đổi Đất Nước theo chiều hướng tốt lên.
Còn về thủ cựu, cũng không thủ cựu mấy, và cũng chẳng bám vào tư tưởng Khổng – Mạnh như quan điểm của nhiều người. Nếu như bám riết vào cái tư tưởng ấy thì tỷ lệ phá thai và trẻ sơ sinh bị bỏ rơi chẳng cao đến vậy; cũng như chẳng có chuyện thầy – trò coi khinh nhau, gia đình bất hòa, người thân ra tay tàn sát người thân, vợ chồng đồng sàng dị mộng hay nam – nữ tham phú phụ bần nhiều như thế.
Phan Hoài Việt tiếp lời:
– Theo tôi thấy, có một số người cổ xúy phóng khoáng như Tây, nhưng toàn áp dụng lối sống lên cách ăn mặc của đàn bà – con gái. Tức là sao? Tức là họ khuyến khích và cho rằng đàn bà – con gái muốn mặc hở cỡ nào cũng được, thậm chí muốn lõa lồ cũng được luôn. Rồi cổ xúy chuyện này thì được cái gì ngoài đã hai con mắt của họ?
Còn bên bám riết lấy tư tưởng Đông Phương thì có rất đông người không học “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng”, mà không ít người lại đi học “điều răn” chồng chúa vợ tôi hay buộc vợ mình phải có con trai để nối dõi tông đường.
Tôi không biết nếu sau này đàn bà – con gái trong nhà họ ăn mặc theo ý họ muốn hay phải chịu cảnh ngậm đắng nuốt cay nơi nhà chồng thì thái độ của họ sẽ ra sao?
Đức Hoàng biểu:
– Tôi hiểu ý hai anh rồi. Điều hay lẽ phải thì không học, còn ba cái gợi dục hay bạo lực thì a-dua theo.
Xương Tuyết bổ sung:
– Đặc biệt có một số người ưa lấy chuyện đóng phim người lớn bên Nhựt làm biểu tượng tự do dân chủ. Và hễ ai không đồng tình với luận điểm của họ là họ lại chụp cho cái mũ “đạo đức giả”, “tại không có tiền nên bày đặt thanh cao”, “như vậy mà đòi tự do – dân chủ”,…
Đó chỉ là một ngành nghề hợp pháp bên nước đó, chứ chẳng có gì vinh quang hay cao siêu mà lại đi gán mác biểu tượng tự do – dân chủ.
Họ khoái gắn chuyện liên quan tới tình dục nơi cửa miệng của họ thì đó là cách ăn nói của họ. Chỉ vì người khác không thích mà họ úp sọt người ta bị lậm Khổng – Mạnh thì thiệt là nực cười.
Phan Hoài Việt trình bày:
– Cái cần lớn tiếng kiểu Tây Phương thì không làm, cái cần nhỏ tiếng kiểu Đông Phương thì cũng không làm.
Lê Đức Hoàng hỏi:
– Tức là sao?
– Không ít người không dám lớn tiếng khi có bất công trong xã hội hay điều bất minh trong chính trường, nhưng lại sẵn sàng lớn tiếng thóa mạ nhau hay chì chiết chửi rủa, trù chết con cháu giữa đường giữa sá hay ở trên mạng xã hội.
Đông Phương quan niệm đóng cửa bảo nhau có gì sai? Con mình thi rớt thì mình về khuyên lơn hay suy xét coi có nên cho nó đi học nghề không; đằng này đứng la bai bải trước cổng trường và trên đường về nhà, có người còn biên bài “đấu tố” trên mạng xã hội luôn; vợ chồng hiềm khích hay bồ bịch lăng nhăng thì kiếm chỗ nào nói chuyện riêng, đằng này xô xát nhau um sùm giữa nơi công cộng hay đăng đàn khắp nơi.
Đặng Xương Tuyết bổ sung:
– Tây Phương trọng sự minh bạch và phản kháng bất công nên mới tổ chức lên tiếng ngoài đường, hình thức đó gọi là “biểu tình”. Đông Phương trọng sĩ diện và danh dự người thân nên mới đóng cửa bảo nhau và không muốn làm lớn chuyện.
Rất nhiều người thời nay khoái gán mác bài Nho để thể hiện ta đây cấp tiến, nhưng hỏi họ biết Nho sai và đúng ở đâu không thì họ lại lôi luận điểm của người khác biên sẵn để trả lời.
Chí Công nhíu mày hỏi:
– Có lẽ bởi người đó nói hay và đầy đủ nên người ta muốn mượn ý sao anh?
– Trời ơi, thí dụ như anh biểu anh ghét tôi, thì anh phải nói cho được tôi ra sao mà đến nỗi anh phải để tâm ghét, chứ chẳng lẽ anh Ba Hói nói tôi này nọ rồi anh ghét lây sao? Anh thương hay ghét ai hay cái gì thì anh cũng phải có cái góc nhìn riêng của mình nhiều hơn là dựa trên quan điểm của người khác.
Đồng tư tưởng hay quan điểm nó khác với a-dua; thí dụ tôi có tật ăn uống rất chậm, anh và mọi người đều biết và chắc chắn tuy khác về mặt câu chữ nhưng khi diễn tả về hiện tượng này mấy người đều sẽ xài chung một ý là, “Thằng này ăn uống cà-rề cà-rà” phải không?
Phan Hoài Việt đổi chủ đề:
– Có một cái tật ở rất nhiều người mà tôi từng gặp ngoài quán cà-phê hay vô tình thấy trên mạng xã hội, đó là nạn chỉ khóc mướn cho nước ngoài chứ không để mắt tới những cái hay mà nước họ có. Thí dụ như luôn lo giùm chính phủ và người dân Hoa Kỳ về tình trạng vô gia cư, đói khổ và xả súng của nước đó, còn những tiến bộ vượt trội về mặt Công – Nông nghiệp và Kỹ nghệ – Thương mại của họ thì không chịu chú tâm học hỏi đặng giúp mình, giúp Nước.
Thương Hận nãy giờ mới có dịp lên tiếng:
– Nhắc mới nhớ, bây giờ có thêm “làn sóng” nói tiếng Anh kiểu ngọng và bồi nữa.
Nói đến ngoại quốc, Khán Bình nhớ ra một chuyện nên đem ra kể góp vui:
– Tôi còn nhớ có một bài viết như vầy: Một ông chủ hãng kem ở xứ Phù Tang bắt buộc phải tăng giá sản phẩm do vật giá leo thang, chứ không còn đủ khả năng duy trì mức giá cũ nữa, nên đã tổ chức một cuộc họp báo để đứng lên mà cúi đầu tạ lỗi với khách hàng và nói rõ lý do đã khiến ông phải tăng giá sản phẩm.
Nói đến đây thì điện thoại của anh Ba Hói lại reo.
Biết ông già Ba Tri đã khám sức khỏe xong, nguyên đám lục tục kéo nhau đi đón ông. Ông thích ăn bánh chuối nên hai ký giả của tòa soạn Canh Tân đã mua cho ông một phần.
– Xui quá bây ơi. Tự nhiên tao bị trúng gió.
– Răng mô. Ôn ăn vú dê nướng không? Con bao.
– Tao đang bịnh.
Xương Tuyết hướt mà nói:
– Còn cái gì đâu mà sợ?
– Còn mày có xài đâu mà sợ.
Tưởng đâu Xương Tuyết giận, nhưng anh ta chỉ cười phá lên và gục gặc đầu đồng tình.
Chiều theo ý xấp nhỏ, ông già Ba Tri cùng tụi nó đến một quán ăn nằm sâu trong miệt vườn đất Ba Tri hiền hòa. Cũng may chiếc xe mười hai chỗ nên không gian bên trong xe rất thoải mái và rộng chỗ, thành ra ông có thể ngả lưng đánh một giấc êm ái.
Anh Ba Hói tâm tình với những người đàn em cùng nghề “bán chữ lấy cơm”:
– Có đôi lúc nó viết ra một câu mà người ta toàn nghĩ theo hướng khác, những khi đó tôi thường khuyên nó phải xóa hoặc sửa lại. Viết báo chứ không phải là viết tin nhắn “chát chít” với nhau mà viết cẩu thả được.
Thành ra hễ mà câu gì nó xóa cũng tức là câu đó nó biết người ta sẽ không hiểu nghĩa bóng mà nó gởi gắm.
Đức Hoàng cười biểu:
– Đặt tiêu đề một bài viết theo kiểu một câu hai nghĩa là tụi em bị ông sếp trừ lương liền.
Chí Công hỏi anh Ba Hói:
– Anh có cài ứng dụng đó không?
– Tôi không bao giờ muốn cài ứng dụng đó.
Xương Tuyết chợt nói:
– Sắp rồi đó…
Không hẹn mà nguyên đoàn đều hỏi. Chú tài-xế cũng lóng tai lên nghe:
– Sắp gì?
– “Đường phân minh định khôn tìm chước. Tước niên điền hoạch định thiên luân.”
Hiểu ý nó nhưng ông già Ba Tri muốn mọi người yên lòng nên nói xuôi:
– Nó lên cơn khùng thôi. Đừng có để tâm hay tốn hơi luận giải.
Xương Tuyết tiếp:
– Mốt, tôi sẽ lên An Giang, ở chơi vài bữa. Chỗ này mà bị động tôi không biết sẽ ra sao nữa…
Đức Hoàng tò mò hỏi:
– Ghé thăm chỗ đó xong, anh sẽ ghé đâu?
– Lên núi Cấm và núi Cô Tô.
…
Sáng hôm sau, xấp nhỏ từ giã ông già Ba Tri mà xuống Đồng Tháp thăm quê cha đất mẹ của Thương Hận.
Trong lúc đợi xăng đổ đầy bình, Đức Hoàng lại níu tay áo của anh Ba Hói mà nói:
– Em tưởng ảnh hổng biết đặt thơ kiểu cổ.
– Đ* mẹ mệt quá! Đã tao biểu nó lên cơn khùng thôi mà! Để ý chi hoài vậy?
Rồi anh Ba Hói hỏi lảng sang chuyện khác:
– Sao gia đình mày theo Hòa Hảo mà không ai kiêng thịt bò hết vậy?
– Đói chết mẹ còn kiêng với cử cái gì? Hễ bữa nào đi chợ thịt con nào rẻ là má em mua con đó về ăn. “Phú quý sanh lễ nghĩa, bần cùng sanh ăn tạp” là nhà em đó anh.
Thương Hận í ới gọi nguyên đám đi nhà hàng ăn trưa trễ với đại gia đình mình, chầu này anh bao hết từ A đến Z. Do hầu bao rủng rỉnh nên anh mướn ba chiếc xe hơi nhiều chỗ ngồi để đủ ghế cho các thành viên hai bên nội – ngoại. Về phần mình, anh ta đi xe hơi riêng với ba mẹ, chị Hai và em Út.
Người mừng nhất không phải ai trong số họ mà là vợ chồng chủ nhà hàng. Tự nhiên bữa nay vô mánh bộn. Hết chồng rồi đến vợ hối nhân viên lo dọn bàn ghế và chuẩn bị nguyên liệu chế biến cho kịp.
Khoảng đâu hai giờ mới xong bữa tiệc nhỏ. Thay vì theo đại gia đình về nhà nghỉ ngơi, Thương Hận lại dẫn bạn bè ra đầm sen trong khu mộ của nhà anh ngồi chơi.
Đây là nơi yên nghỉ của dòng họ bên ngoại Thương Hận sau khi mất, tính đến nay đã được hơn sáu mươi năm. Trong mảnh đất rộng lớn này có một cái đầm sen tự nhiên, nghe đâu nó đã có từ trước khi ông cố tổ của Thương Hận dắt díu gia đình về đây sanh sống, dân trong vùng ít ai dám lai vãng vì truyền thuyết ma-da và sấu tinh náu mình ở dưới đó, nhưng chàng nhạc sĩ biểu rằng, “Không ở ác thì chẳng sợ yêu – ma nào hết.”
Trước lúc nhóm lại ngồi chơi bên đầm sen, nguyên đám đi thắp nhang cho từng ngôi mộ. Mùi cỏ cây ngan ngát hòa lẫn với hương nhang trầm thơm thơm đem đến một cảm giác u buồn kỳ lạ. Thảng trên chiếc ghe bầu, tiếng ca của Út Trà Ôn trong vở “Tình anh bán chiếu” nghe hoài thương, hoài nhớ một thời huy hoàng của nền Kịch nghệ – Cải lương xứ Nam Kỳ.
Tấm chiếu này ông cố ngoại của Thương Hận mua từ một làng nghề ở Vĩnh Long, đã cũ lắm rồi nên trải ra ngồi trên đất không cảm thấy xót ruột hay phải tưng tiu như mấy chiếc mới.
Đức Hoàng lôi bộ bài tây ra. Chưa kịp nói gì hết thì anh Ba Hói đã cất giọng pha lửng:
– Đưa bộ bài cho nó bói hay gì?
– Đâu có. Đánh “Tiến lên”. Ai thua quẹt lọ nồi.
Chí Công gãi đầu:
– Sao hổng chung tiền?
– Mày nhìn tao giống người có tiền lắm hả?
Thương Hận phì cười:
– Tôi nhớ từng đọc một câu trên mạng rằng, “Thắng làm vua, thua thì làm khùng làm điên để lấy tiền lại”.
Chí Công vỗ vai thằng bạn Bảy Núi mà cười nói:
– Ai chứ mày dám lắm nghe con.
Xương Tuyết nhận phần chia bài. Vừa xào bài vừa thuật rằng:
– Có nhiều người hỏi sao cùng giờ sanh tháng đẻ mà người ta giàu – tôi nghèo, cái đó quá đơn giản thôi, do đấng sinh thành của anh xuất thân từ đâu và phước đức tổ tiên anh ra sao thì anh phải chịu tác động y vậy.
Tôi có biết một cô gái có cùng kiểu lá số với một nàng công chúa ngoại quốc, nhưng người ta là cành vàng lá ngọc, còn cổ thì phải trải sạp lạc-xoong bán ở chợ trời từ lúc mới lên tám tuổi để đỡ đần gia đình. Nhưng hậu vận của cổ thì hệt khuôn nàng công chúa kia, hiện thời cuộc sống của cổ rất sung sướng vì được vợ chồng thương gia nhận làm em nuôi và lo chu toàn như bà con ruột thịt.
Thương Hận hứng thú hỏi:
– Sao hậu vận tốt hay vậy?
– Bởi vì dù gia cảnh bần hàn, nhưng hễ có dư chút đỉnh tiền là cổ lại cho người nghèo. Vào năm tám, chín tuổi, khi cùng đi ăn hủ tíu với ba mẹ, cổ nhìn thấy một người vô gia cư đang ngồi ôm bụng chịu đói trên thềm ngôi nhà nằm cạnh quán ăn. Cổ mới nói láo với ba mẹ rằng lỡ xịt nước tương nhiều quá nên không muốn ăn, nên xin ba mẹ cho cổ đem tặng ông già ấy. Do không có dư tiền trong túi nên ba mẹ cổ không thể mua tô khác cho con gái ăn, nhưng cổ cũng chẳng hề nhăn nhó hay đòi ăn phần của ba mẹ. Cổ đã chịu đói thay cho ông già nghèo khổ suốt đêm đó.
Anh Ba Hói trầm ngâm:
– “Có đức mặc sức mà ăn.”
Rồi anh Ba Hói giục:
– Thôi, chơi đi, đừng nhắc chuyện bói toán nữa.
Chơi đánh bài được đâu chục ván mà mặt mày thằng nào thằng nấy y hệt Bao Công. Thấy cơn nắng càng lúc càng dữ, nguyên đám bèn hè nhau giải tán.
Trên đường về ngôi nhà hương hỏa của gia đình Thương Hận, Hoài Việt hỏi Xương Tuyết một câu hỏi về Kinh Tế học. Và gã điên trả lời như vầy:
– Theo thiển ý của tôi, tôi đánh giá một quốc gia giàu hay nghèo dựa trên khoảng cách giàu – nghèo của cái xã hội đó. Thành ra, có nhiều nước được thế giới công nhận là giàu nhưng đối với tôi thì không.
– Anh có buồn nếu người ta chỉ ra cái sai trong quan điểm của mình không?
– Trời, chỉ là góc nhìn cá nhân của tôi thôi mà, đâu đáng để tranh cãi hay phản biện.
Hoài Việt kể:
– Tôi đã từng xem một đoạn phim, người đăng chú thích rằng nhân vật và bối cảnh của câu chuyện là Ấn Độ, tạm không bàn tới tính chất thực – hư của nội dung và địa danh trong video trên là nước nào, ở đây tôi muốn nói về một khía cạnh rất đáng lưu tâm trong nội dung câu chuyện ấy. Số là vầy: Theo như nội dung trong video, hễ mỗi lần tới mùa tranh cử là rất nhiều ứng cử viên vung tiền ra mua chuộc và tặng quà cáp cho dân cư trong những khu rất nghèo để đổi lấy lá phiếu và sự ủng hộ của họ. Lâu dần, những người dân này không còn thiết đi làm nữa, mà suốt ngày nằm nhà ăn chơi và đợi mùa tranh cử tới để nhận tài vật từ những tay ứng cử viên ma-le đó. Và rốt cuộc, đời sống an sinh xã hội của đất nước ấy không được cải thiện và chính phủ bị “rước thêm” những tên tham nhũng cũng như bất tài.
Lòng tham của một con người có thể giết chết một quốc gia không? Tôi cho là có đó.
Xương Tuyết đổi đề tài:
– Anh có biết tôi thích coi truyện dã sử Tàu ở chỗ nào không? Ở đó đầy rẫy những nhân vật theo kiểu “Chó cắn là chó không sủa”, họ muốn giết hay trả thù đối phương, họ tẩm ngẩm tầm ngầm lập mưu mà làm, chứ không ngồi soạn “tấu chương” bô bô cho ai biết. Nếu thật lòng Tần Thúc Bảo mang ơn Đơn Hùng Tín thì đã không để mặc người này chết rồi; và từ đầu đến cuối, chưa một lần Tần Thúc Bảo hé răng nói một lời bạc ác nào về Đơn Hùng Tín.
Cái người chửi anh nhiều nhất hiếm khi nào là người giết anh. Nhưng cái kẻ tẩm ngẩm tầm ngầm tỏ ra mặc kệ những gì anh nói và làm mới là người sẽ giết anh nếu có dịp.
Hoài Việt đặt câu hỏi:
– Theo anh, sắc dân nào nên duy trì chủ nghĩa dân tộc theo chiều hướng khắt khe?
– Sắc dân da đỏ, hay còn gọi là “Native Indian”. Họ là một trong những nhóm dân mà tôi nghĩ nên duy trì chủ nghĩa dân tộc theo chiều hướng khắt khe một chút.
Cả nam hay nữ đều tết tóc và thắt bính theo kiểu “cổ truyền”. Hạn chế kết hôn với người khác sắc dân và chủng tộc. Sinh hoạt vẫn giữ nguyên các phong tục, lề thói, ẩm thực, nghệ thuật và văn hóa xa xưa của ông bà tổ tiên của họ. Và tín ngưỡng lẫn nghi thức thờ cúng đều giữ rịt thông lệ và phương cách đời trước.
– Phải. Chỉ cần nhìn mặt và kiểu trang điểm là biết họ là người Mỹ bổn địa liền.
– Thời nào cũng cần chủ nghĩa dân tộc để giữ vững nền móng một quốc gia và xây dựng đời sống tinh thần – vật chất phú cường cho người cùng sanh hoạt trong một nước. Nhưng, nếu đẩy chủ nghĩa này tới giới hạn cực đoan, trước hay sau, sớm hay muộn, vùng đất đó cũng tanh banh.
Nói khí không phải, anh có biết bầy chó điên cắn càn không?
– Biết.
– Người ta sẽ tiêu diệt luôn chứ không chích thuốc mê rồi nuôi nhốt đặng thuần dưỡng lại nữa.
– Tôi hiểu ý anh rồi.
– “Vật cực tất phản.” Trong Thái Dương vẫn có Thiếu Âm, trong Thái Âm vẫn tồn tại Thiếu Dương, để duy trì sự cân bằng Âm – Dương cho vạn vật. Thừa hay thiếu tất sẽ dẫn đến đại loạn.
…
– Tối nay tôi sẽ đãi mọi người món bánh xèo theo công thức do mẹ tôi truyền lại.
Đáng ra bữa nay Xương Tuyết có mặt ở An Giang, nhưng chuyến xe đã đặt bị đình lại do tài-xế bị trúng gió sau cuộc nhậu với anh em trong nghề.
Đức Hoàng hỏi:
– Có bí quyết chi không anh?
– Phải chiên bằng chảo gang và mỡ heo mới ngon.
Rồi gã điên hứa:
– Mốt có nấm mối, tôi đổ cho các anh mấy cái ăn cặp với lá cách và rau vườn.
Ngôi nhà của ba mẹ Phan Hoài Việt nằm bên bờ sông Ba Lai, đối diện với chợ Bờ Kè, quanh năm được che chở bởi bóng mát của dừa, cau và vô vàn loài cây miệt vườn khác. Thay vì xây hàng rào gạch, bác Hai lại kéo lưới sắt B40 và trồng cây bông bụp xen kẽ với bùm sụm dọc theo chân tường; nơi cổng rào lắp thêm giàn hoa giấy Cẩm Thạch đan cài với đậu biếc tim tím.
– Bữa hổm ổng bạn Văn Chương cho cuốn “Chân dung Hồ Biểu Chánh” của tác giả Nguyễn Khuê, may sao trên mạng có chỗ đăng miễn phí rồi.
Hoài Việt hỏi:
– Anh có biết cuốn “Nguyễn Trường Tộ: Con người và Di thảo” của ông Trương Bá Cần?
– Biết. Thì sao?
– Đáng ra ổng nên có một cuốn mang tên “Trương Bá Cần: Con người và Di thảo” mới đúng.
Xương Tuyết phì cười:
– Ừ, ông này là một trong số những người có đời tư bị đem ra bàn luận và tranh cãi nhiều nhất. Thật – Giả không biết thế nào nữa.
Anh Ba Hói xen vào:
– Nhưng nếu chịu khó tìm hiểu về cuộc đời của ổng, sẽ cho ta thấy một khía cạnh khác của giai đoạn lịch sử trước năm 75. Thành ra cũng đáng để tìm hiểu lắm.
Hoài Việt nhận xét:
– Tin nào bất lợi với người mình ghét thì tin sái cổ, còn tin nào bất lợi với người mình thương thì ra sức cãi lại; tâm lý như vậy đọc sử liệu dễ bị gạt lắm.
Anh Ba Hói bình phẩm:
– Nên đọc sử liệu với tâm lý tham khảo và tìm hiểu góc nhìn chính trị thời đó cũng như nhận định của người chép sử đó ra sao thôi. Cả tin hay phủ nhận thái quá đều không nên hết.
Đức Hoàng xen vô hỏi về việc coi bói toán có cần kiêng cử chi không. Và gã điên trả lời như vầy:
– Bản thân coi bói đoán mà kiêu căng quá dễ bị phản phệ rồi đoán trật lắm, nhứt là ở mấy người, “Ai không tin tôi là chết” hoặc “Chỉ có thứ ngu mới không tin tôi”.
Có một người trích ra vài câu trong Sấm Trạng Trình rồi khăng khăng đoạn này là nói về cứu tinh của xứ này đã xuất hiện rồi, còn khen ngợi và hoan hô cái tên ấy nhiệt liệt. Ai ngờ đâu, chưa đầy mấy năm sau, cái người mà người đó quả quyết là cứu tinh lộ bộ mặt thật hai hàng ra. Người đó bị hố mấy lần mà vẫn chưa chịu bỏ câu trên.
– Có tật thường có tài mà. Googl𝑒 𝘁𝑟ang nà𝗒, đọc nga𝗒 không quảng cáo ﹏ T𝙍Ù𝗠T𝙍𝐔 YỆN﹒ⅤN ﹏
– Thôi, có tài quá nên tôi không dám nói chuyện chung.
Anh Ba Hói ghẹo:
– Mai mốt có khứa tên Bảo Giang ra nhận bản thân là thiên tử luôn.
Ai nấy thảy đều phì cười.
– Ba tôi cũng từng luận giải Sấm Trạng Trình cho tôi nghe, và chỉ có người tôi tin tưởng nhứt tôi mới kể cho nghe.
Đức Hoàng nài:
– Một câu thôi.
– Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng tiên đoán sau này người Việt sẽ có mặt ở khắp nơi trên thế giới, và nó đã ứng nghiệm. Hết.
Và gã điên ngâm nga:
“Đọc lại sách xưa lòng mới thấm
Bao nhiêu dâu bể bởi tâm si…”
Hình như Hoài Việt thoáng thấy Xương Tuyết đã khóc. Điên mà vui vẻ như Bùi Giáng mới khoái, điên mà hở ra một chút là khóc thì chẳng khác nào tự đọa mình vào lòng Địa Ngục A-Tỳ.
– Khóc cái đách gì? Khói lớn quá nên mắt nó cay xè vậy thôi.
Do không có đứa nào biết đổ bánh xèo nên công việc trên giao khoán cho gã điên. Mỗi người ăn bốn cái, biếu hai bà cháu hàng xóm tám cái, cộng thêm chiên cho ba mẹ Hoài Việt tám cái nữa, tổng cộng là sáu mươi cái. Đổ xong thì Xương Tuyết cũng nghỉ ăn vì hai tay tê rần và mỏi nhừ.
– Uống nước mủ trôm cho khỏe người nè Tuyết.
– Cảm ơn Việt.
Rồi thầy giáo họ Phan lên tiếng hỏi:
– Anh Ba Hói, cho em biết tên họ thật của anh được không?
– Tôi họ Từ, tên Hớn Mai.
– Tên gì ngộ vậy?
– “Hớn Mai” là cách đọc trại từ chữ cách nói lái chữ “Cái Mơn”. Lúc xuống Cái Mơn mua sầu riêng ăn cho đã thèm, mẹ tôi đã chuyển dạ trên xe đò và đẻ luôn vào khoảng một tiếng sau trong nhà bảo sanh gần đó. Ba tôi bèn lấy cái tên “Hớn Mai” để làm kỷ niệm.
Xương Tuyết pha trò:
– Cái tên đẹp vậy mà chỉ vì cái đầu hói người ta không thèm nhớ luôn.
Anh Ba Hói kiễng chân ký vô đầu thằng em thần kinh mấy cú đau điếng.
Chí Công cười hiền:
– Hèn gì bút hiệu của anh là “Hớn Mai”, em tưởng anh hâm mộ ông Hớn Quản nên mới đặt theo. Chớ ai dè đây là tên thiệt của anh đâu.
– Rồi thằng khùng này ăn bánh xèo chưa? Hay thương tao mà lo viết bài nộp tòa soạn?
– Em ngồi nghỉ mệt xíu. Bữa hổm bị xốc dằm do leo cây thốt nốt nên bàn tay vẫn còn bị hành mủ độc.
– Đ* mẹ hai con mắt thì hổng thấy đường mà toàn lựa “cây cao bóng cả” leo trèo. Rồi có đi thầy bà lể – chích gì hôn?
– Rồi, nhưng uống thuốc vô nên hai mắt híp hịp, buồn ngủ hoài, không đủ sáng trí để nghĩ.
Anh Ba Hói vỗ vai thằng em mà khuyên nó chợp mắt một lát cho khỏe khoắn rồi hẵng ăn sau.
Sẵn có mấy chai rượu chuối hột nên anh em ra sau hè trải chiếu ngồi nhậu. Trước khi vô bàn, Hoài Việt cùng anh Ba Hói bưng bánh xèo và rau sống qua nhà gia đình có hai đứa con đi làm mướn bên Thái Lan; để rồi được nhận về từ bà lão mấy nải chuối sáp và một mâm bánh bò bông bà mới đổ.
– Ê bốn đứa.
– Dạ?
– Tòa soạn tụi bây có lên lương không?
Đức Hoàng trề môi:
– Chừng nào ông chủ nhiệm cao lên một tấc thì khi đó ổng mới tính chuyện tăng lương.
– Tòa soạn của tôi lên lương rồi. Giá xăng đắt đỏ hơn kim cương, nhiều khi một tháng trời không kiếm được bài nào hay để đăng báo, không cho thêm tiền ký giả có nước nguyên bầy húp cháo mà sống.
Chí Công quay qua hỏi Hoài Việt hồi nhỏ đi học có kỷ niệm nào vui không, và anh thầy trả lời như vầy:
– Hồi đó đó, tôi có thằng bạn nhà bán hủ tíu, nó ưa nghêu ngao ca, “Em là khúc xương heo. Em lớn lên trong thùng nước lèo…” Chế từ hai câu, “Em là búp măng non. Em lớn lên trong tình kết đoàn…” Có lần cô giám thị “mời” nó lên hát cho toàn trường nghe, cũng may bà dễ nên nó không bị kiểm điểm.
Nguyên đám nhìn nhau cười um sùm.
oOo
Trần Kim Thương và Hoàng Lan quyết định coi nhau là bạn, còn chuyện có quay trở lại với nhau không thì họ sẽ để tương lai trả lời. Tình đầu thường khó nguôi ngoai, huống hồ chi người đó lại là em ruột của chú.
Kể từ ngày có bác Ba, quán nhỏ của hai má con luôn rộn vang âm nhạc và tiếng cười. Hiện ông đang xem tin tức trên mạng xã hội trong khi nghe Chế Linh hát bài “Hãy quên anh” của nhạc sĩ Phương Kim. Bỗng ông bất bình nói:
– Tui coi một đoạn băng của Đại Hàn giới thiệu một quán ăn nấu món Việt bên xứ họ, quá trời quá đất người Việt vô chê và dạy đời quán này rằng nấu như thế không chuẩn, về Việt Nam học nấu đi,… Trời ơi! Bán ở Hàn thì phải nêm nếm theo khẩu vị của người Hàn mới dễ bán, bán rặt ri như Việt Nam mấy ai quen mùi vị mà ăn?
Cũng như người Việt có mấy ai ăn được phô-mai chánh thống và súp kem của phương Tây không? Và rất hiếm người Tây ăn được mắm và sầu riêng xứ mình.
Mợ Hai xua xua tay:
– Hơi đâu ông để tâm ông ơi.
– Tui đâu cần thay đổi cái xã hội này, tui chỉ muốn dạy cho thằng Út sống biết điều và hiểu chuyện thôi.
Mợ Hai cười xòa, rồi bỏ xuống bếp lo coi sóc mấy cái lò nướng bánh. Bữa nay có tiệc cưới đặt bà làm hai trăm ổ bánh mì bơ tỏi, nên bà phải thăm chừng cẩn thận để tránh làm hỏng ngày vui của người ta.
– Mày ở Mỹ thì “You – Me”, nhưng về đây phải nắm được cách xưng hô, thứ bậc và tôn ti trật tự trong nhà. Bữa trước mày hỗn với anh Tư tao chưa rầy mày, nay có dịp la luôn cho khỏi quên.
– Okay. Mất bao lâu để con liệu đường nói cho bạn con khỏi chờ?
– Nửa tiếng thôi con.
– Đồng ý. Để con bấm giờ.
Rồi trước sự chứng kiến của chú Thương, Vệ Thu lên hơi quở trách đứa con không ngơi nghỉ trong vòng đúng nửa tiếng.
– Xong. Hết giờ. Con đi lại nhà thằng “dude” nghen ba?
– Ờ.
Mợ Hai nghe câu được câu mất nên lên hỏi thằng “điêu” là thằng nào. Ai đời lại đặt tên con là tên “Điêu”.
Vệ Thu phá lên cười, rồi ôn tồn giải thích:
– “Dude” là bạn rất thân, còn chừng nào nó kêu là “Thằng bạn” thì chỉ chơi xã giao thôi.
Mợ Hai bị quê xệ vì trình độ sinh ngữ thấp thỏi nên hờn mát mà nói:
– Càng ở chung, tui càng cảm thấy hai cha con ông “bất bình thường”.
Chưa đầy hai tiếng mà Vệ Thương đã trở về, đem theo một thằng bạn có bộ dạng liễu yếu đào tơ.
– Thưa bác Ba, thưa mợ Hai, con là La Yến Thanh. Xin cảm ơn vì đã mời con đến đây ăn cơm với quý gia đình.
Mợ Hai niềm nở mời Út Thanh xuống bếp. Trong khi ông bồ của bà đứng chết trân như Từ Hải.
Đợi cho người bạn của thằng Út đi mất rồi, Vệ Thu kề tai con nói nhỏ:
– Bạn nghen con, đừng có nói với tao nó là người yêu của mày.
– Ba làm như nó dễ dãi vậy. Tánh nó khó chịu một cây luôn, ở đó mà ưng con.
Út Thanh xuống bếp phụ nấu nướng với mợ Hai. Tài nghệ của anh đã khiến bà hết hồn, bà lúc nào cũng hãnh diện thằng Hai “thợ đụng”, tức đụng chuyện gì nó cũng giải quyết rất tốt và rốt ráo, bữa nay mới thấy có người đứng bếp vừa giỏi mà lại còn gọn và mau hơn nó nhiều.
– Con lắc chảo giỏi ghê… Mợ mà lắc một cái chắc đổ tùm lum hết…
Út Thanh bẽn lẽn cười.
– Mà, con đừng có rớ vô nồi cà-ri cá viên của cha già “Hồng Kông bên hông Chợ Lớn” nghen? Chả tự ái dữ lắm, nêm không ra lát chả đổ thừa giờ.
– Dạ.
Nơi nhà trên, bài hát “Nàng giáng tiên” do Don Hồ ca đang nói thay nỗi lòng của Trần Kim Thương. Bản gốc mang tên “Diana” của ca – nhạc sĩ Paul Anka, còn lời Việt của nhạc sĩ nào thì chú không rõ. Vì mẹ chú đang ở dưới bếp nên chú phải ở nhà trên trông coi quán, thành ra mất đi cơ hội trổ tài nấu nướng với người bạn của Út Thương.
– Xuống ăn cơm Thương ơi! – Mợ Hai đứng ở cửa hông mà cất giọng thông báo.
Cả nhà quây quần bên bàn ăn được dựng đối diện với lối vào nhà kho. Vì nhà phố dạng “ống” chật hẹp nên hai má con nhờ kiến trúc sư và kỹ sư xây cất sao cho có ba lối thoát hiểm: Một dành cho khách hàng và nhân viên trực ở nhà trên, một dành cho nhân viên làm việc ở xưởng bánh với nhà vệ sinh và một dành cho hai má con bà ở chỗ bếp ăn riêng của gia đình bà; thậm chí trên trần còn trổ vài ô vuông bằng kiếng cường lực có kích thước đủ để người nặng hơn trăm ký chui qua lọt, những lúc bình thường hai má con bà sẽ khóa lại bằng remote và che đậy chúng dưới hình thức la-phông có hoa văn sặc sỡ, độc đáo.
Bữa cơm có món cà-ri cá viên, phá-lấu bò và cà tím nướng mỡ hành, đậu bắp luộc, dưa giá, canh giò heo nấu củ sen và hạt sen, rau cải xào tứ quý, tôm chiên sốt trứng muối và gà che hấp rượu với hành tím, tỏi tép. Tráng miệng có chè bảy màu và rau câu phô-mai. Đương nhiên nhân viên cũng có phần.
Mợ Hai ngó thằng con của ông bồ mình mà dịu dàng nói:
– Bữa nay Út Thương ăn chung với mọi người được rồi hen?
Vệ Thương gãi đầu cười bẽn lẽn:
– Dạ.
Vệ Thu cất giọng hỏi:
– Cậu đây làm nghề chi?
La Yến Thanh ngừng đũa mà ngửng mặt lên cười tươi và trả lời ba của thằng bạn:
– Dạ, hớt tóc mướn thôi chú, quởn thì đi dạy kèm miễn phí.
– Đâu, ảnh là nhà tạo mẫu tóc đó ba…
– Còn mày?
– Nghề “Phụng dưỡng cha già kính yêu”.
– Mày mới “kính yêu” của tao hơn mấy ngàn Mỹ kim rồi đó con.
Út Thanh ướm hỏi:
– Hay là để con dạy nghề cho Út Thương?
– Thôi, thôi, thôi, cho nó học nghề làm tóc, khác nào đưa nó vô con đường đao phủ. Nó gọt trái cây còn đứt tay máu phun vèo vèo, nó “gọt” đầu người ta…
– Hồn lìa khỏi xác thôi có gì đâu ba.
– Sao mấy người không ăn cơm đi? Ngồi đó mà bụm miệng cười hoài vậy?
– Tổ cha ông với thằng Út… Giỡn hoài ai ăn sao đặng?
Vệ Thu nhân đó than thở hai cha con cách biệt tuổi tác quá lớn nên không thể gần gũi với thằng Út.
– Ai biểu hồi xưa ham hố chi? Giờ cha qua hàng sáu, còn con chỉ mới hai mươi tuổi đầu.
– Bà cũng “ham hố” tui gần chết, ở đó…
– Chưa biết đứa nào ham đứa nào à nghen?
– Mày uống nước ngọt nữa.
Vệ Thương nhún vai, rồi vừa vặn nắp chai nước ngọt “Sunkist” mùi dâu tây vừa trả lời:
– Ngon mà.
– Có nước mát quá trời kìa không uống.
Út Thanh chợt nhớ tới người cha cũng trạc tuổi với bác Ba. Không biết chừng nào ông mới chấp nhận con người thật của anh, và đừng có cho rằng anh bị quỷ ám hay tâm thần nữa. Cũng may còn có Samuel Định, anh họ của Manuel Ngô, nếu không chắc anh đã nghĩ quẩn rồi.
Nguyễn Quý Sinh, Phan Huy Tường và Vệ Giản đã đi học về. Sau khi cất cặp – sách và đi rửa mặt – rửa tay, ba chàng lính ngự lâm liền sà xuống ăn cơm; trước lúc bưng chén lên ăn, cả ba đồng thanh mời cơm theo thứ bậc trong gia đình và khách khứa.
Những mẩu chuyện vui trong giờ học Anh ngữ của Quý Sinh đã làm bầu không khí hết sức ấm cúng và thâm tình. Ai nấy tranh nhau góp một kỷ niệm mắc cười về chuyện học tiếng Anh hay nói tiếng Anh ấm ớ của mình. Như mợ Hai kể hồi đó đi mua thuốc Panadol mà nói lộn thành Panasonic!
Ăn xong bữa cơm, nhân lúc thằng bạn thiết đi vệ sinh, Út Thương thông báo cho cha hay rằng sẽ lên Đà Lạt với nó.
Vệ Thu kề tai con trai nói lấp lửng:
– Lên đó đừng có vô “Thung lũng Tình Yêu” nghen con?
Út Thương giận nhưng không muốn làm cha phiền lòng nên nói xuôi xị:
– Đã nói con với nó hổng có cái gì rồi mà.
Samuel Định đã đậu xe bên vỉa hè của quán nhỏ, hiện anh ta đang xem sàn giao dịch chứng khoán ra sao để còn biết đường mà lần. Nhác thấy hai người trở ra, gã vặn chìa khóa đặng cho máy nổ, làm như vậy chiếc xe sẽ bền và ít bị hư phụ tùng hơn.
Vệ Thương và La Yến Thanh ra băng sau ngồi. Chiếc xe Dodge chỉ có hai cửa nên Út Thương vô trước, còn Út Thanh vô sau.
Vừa chỉnh lại kính chiếu hậu, Samuel Định vừa nói:
– Người anh em của tôi mới bị đâm thủng bụng, hiện giờ không biết sống chết ra sao.
Út Thương cau mày hỏi:
– Bảo hiểm có đủ lo viện phí cho ảnh không?
– Không. Thậm chí còn phải đắp vô tiền mướn điều dưỡng viên nữa.
– Okay. Để tôi đắp vô giùm cho.
– Cảm ơn cậu.
– Anh không có lòng vòng hay làm bộ khước từ, cần thì nói cần – không thì nói không. Tánh tình rốp rẽng vậy tôi ưng bụng lắm.
– Mày mà cũng biết chữ “Rốp rẽng” sao?
– Baba tao dạy. Í, hổng phải, ổng nói chuyện với đồng hương xứ Việt cái tao học lỏm theo.
Chiếc xe đã bật tín hiệu sang lane trái nãy giờ mà vẫn chưa thể quẹo qua được. Bây giờ đã hai giờ chiều, lên được Đà Lạt chắc phải tới khuya. Samuel Định dự tính sẽ nghỉ ngơi ở một địa điểm nào đó tại Bảo Lộc trước khi ghé Đà Lạt.
– Mà sao bạn mày bị đâm?
Nhìn trước ngó sau một đỗi, Út Thanh mới kề tai thằng bạn nhỏ tuổi mà hộc rằng:
– Liên quan tới A Sang.
– À há…
Vù một cái, chiếc xe đã quẹo qua được làn đường bên trái. Không nhờ Samuel Định nhanh tay ắt hẳn ba người còn bị chôn chân ở đây tới tối.
Út Thương nhìn Út Thanh mà biểu:
– Mà nè, tuần tới nhuộm lại tóc cho tao nghen?
– Chi vậy? Tóc mày màu nâu hạt dẻ rất đẹp, tự nhiên…
– Thôi đi mày ơi! Nhìn yếu xìu hà. Nhuộm đen – vàng “cứng” hơn.
– Y như màu lông con chó vậy.
Thông qua kính chiếu hậu, Samuel Định nhìn hai người thanh niên nhỏ tuổi hơn mình mà cười tủm tỉm. Rồi bật nhạc lên nghe.
Nhật Trường đang ca bài “Trầm tư chiều Đà Lạt” của nhạc sĩ Vũ Hoàng; đây là một trong những lần biểu diễn ca khúc của thế hệ nhạc sĩ sau năm 75 rất hiếm hoi của ông.
– Anh Định, đổi bài.
Biết ý Út Thương thích nghe những bản nhạc sôi động và vui tươi, dù nó vô nghĩa, nên Samuel Định bèn nhân lúc chờ đèn xanh mà để đĩa nhạc vô.
Một bài hát chỉ có chừng bốn, năm câu của ban “Boney M” mang tên “Daddy cool” đã làm Út Thương cười sặc sụa. Cậu không ngờ thời xưa mà đã có những bài hát lãng giang tồn tại rồi.
– Vui rồi phải không?
– Dạ… Có bài nào thập niên 70, 80, 90 và đời 2000 mà hay không anh?
Samuel Định chọn bài “Gimme, gimme, gimme (A man after midnight)” của ban “ABBA” lên, rồi nói:
– Madonna có một bài hát mang tên “Hung up” có giai điệu rất giống với bài này.
Đi được mấy cây số, câu chuyện càng lúc càng rôm rả thì bỗng nhiên hết vui, vì bên kia đường có chuyện xảy ra. Ký giả và người dân hiếu kỳ bu nghẹt quanh tòa cao ốc; còn nhóm cảnh sát thì chật vật làm nhiệm vụ phong tỏa hiện trường. Vì mọi người xúm lại hóng chuyện đông quá nên con đường bị kẹt cứng, chiếc xe của ba người đành tắp vào bãi đậu xe dưới tầng hầm của khu thương xá gần đó để tra bản đồ trên máy đặng tìm lối đi khác. Sẵn dịp, hai cậu Út rủ Samuel Định đi vệ sinh, song gã khoát tay và biểu hai người mau đi đi.
Trong lúc đợi hai cậu Út, Samuel Định bước xuống xe và đứng chống nạnh mà nhìn về phía tòa cao ốc đó. Nghe đâu tòa cao ốc này là tài sản của tập đoàn do gia tộc Lê Hoài Sang làm chủ, thường được chọn làm nơi tổ chức hội nghị, tiệc tùng và chương trình giải trí của tập đoàn và những doanh nghiệp, đối tác khác. Chợt, gã quay phắt người lại, một người đàn ông có gương mặt xương xương đang cầm cái ống nhòm mà dòm qua khu vực đó; người này cũng mặc âu phục và đi giày tây như gã, ngó dáng dấp và sắc diện thì đoán tuổi cũng gần tứ tuần. Tự nhiên gã có dự cảm rất xấu, không biết về ai hay chuyện gì, nên phải mau chóng trở lên xe ngồi đợi. Chờ thêm mười lăm phút nữa, mới thấy hai cậu Út lót tót trở ra.
Út Thương cười xoa dịu:
– Xin lỗi anh nghen? Tại em muốn mua snacks và đồ uống nên đã bắt anh đợi lâu.
Samuel Định phì cười, rồi làm cử chỉ vời lên xe:
– Không sao đâu.
Hai cậu Út vội vàng leo lên xe ngồi. Cài xong thắt lưng bảo vệ, Út Thanh đưa cho Samuel Định một bịch bánh khoai tây chiên tẩm bơ Pháp và mật ong, xuất xứ Đại Hàn, tên là “Haitai”. Nếm được vài miếng, gã bình phẩm:
– Rất ngon, nhưng ăn cái này khát nước lắm.
Út Thanh cười biểu:
– Tôi có mua cho anh chai trà “Pure Leaf” vị phúc bồn tử ít đường nè.
Samuel Định có điện thoại. Nghe trọn vẹn câu chuyện mà người đầu dây tường thuật, gã quay qua nói với hai người bạn trẻ:
– Tôi sẽ đưa hai cậu lên Đà Lạt. Rồi về.
Út Thương phụng phịu mè nheo:
– Tiếc quá hà…
Út Thanh rùng mình:
– Tao bê-đê mà tao còn hổng có làm cái vẻ mặt giống mày.
– Kệ tao.
Samuel Ngô lên tiếng dàn hòa:
– Hai đứa đừng có cắn đắng nhau nữa. Nếu xong việc thì tôi sẽ lên chơi. Hai đứa ở đó chừng mười ngày không?
Út Thương hướt mà đáp:
– Dạ, khoảng đó đó anh.
– Vậy tôi có thể lên đó ở chơi ba bữa.
Lại có người gọi điện thoại đến máy của Samuel Định. Gã ra hiệu cho hai cậu Út im lặng, rồi lóng tai nghe cho kỹ những gì mà người đầu dây bên kia nói.