Quyển 2 - Chương 54: Một vệt nắng chiều
Một vệt nắng chiều, sóng nước reo.
Vẫn là câu nói cũ: Có sức khỏe là có tất cả.
Không dám lười nhác nằm ườn một chỗ, tôi tự ép mình trở người, nhờ Đông Ly đỡ ra ngoài sân tản bộ.
Ngoài ăn uống đủ chất để bồi bổ cơ thể thì tôi còn phải nạp vào người các một đống thuốc thang đắng ngắt theo chỉ thị của Dương Gia, mỗi ngày vận động cơ thể và tắm nắng để nhanh chóng được sống như một người bình thường.
Hiện tại tôi và Đông Ly đang tạm trú ở nhà riêng của Dương Gia tại trấn Thiên Hưng (1), cách kinh thành Thăng Long tới hai trăm dặm đường.
Vị thần y này sống một mình nên căn nhà cũng chỉ có mấy gian, bao gồm phòng ngủ của ông ta, một căn phòng dành riêng cho con gái – tức Dương Thu Nguyệt – nếu có đến thăm, phòng để đồ, phòng bếp.
Trước nhà là một khoảng sân rộng, ra khỏi cổng sẽ thấy hai hàng cây dẫn lối, cây nào cây nấy đều cao tới bốn, năm mét. Tán cây rộng, rợp một màu trắng tinh khôi với những chùm hoa bung nở. Tôi và Đông Ly đều không rõ đây là cây gì, con bé đã từng hỏi Dương Gia nhưng chỉ nhận được cái nhìn đầy khinh bỉ nên đành bỏ cuộc.
Ngay dưới gốc cây đầu tiên bên trái có đặt một chiếc chõng tre nhỏ, tôi mới đi qua đi lại một lúc đã thấm mệt, liền phủi đi vài chiếc lá rơi trên đó rồi ngồi xuống nghỉ ngơi.
Nghĩ cũng kỳ lạ, hoạt động rồi mới thấy gân cốt đều vô cùng bình thường, tôi không hề giống với người phải nằm liệt giường suốt ba năm. Có chăng chỉ cảm thấy hụt hơi một chút, đầu óc choáng váng, nói chuyện vài câu là phải thở dốc. Có lẽ đúng như Quỷ Dẫn Đường đã nói, cơ thể này của Đoàn Niệm Tâm vốn đã chết từ lâu, còn tồn tại đến giờ đều là nhờ vào linh hồn của tôi cả.
Đông Ly mang tới cho tôi một bát nước ấm, chỉ vào cái chõng tre rồi nói: “Ngày em và cô quay về Thăng Long sắp đến rồi, em nhất định phải mang theo nó về.”
Tôi chỉ có thể uống từng ngụm nước nhỏ, động tác vô cùng chậm chạp.
“Ồ, cái chõng này đặc biệt thế cơ à?” Nước trong bát khẽ sánh, rơi vài giọt xuống áo nhưng tôi không quá để tâm, chỉ tò mò vì sao Đông Ly lại muốn đem theo thứ này quay lại kinh thành.
Con bé cười rộ lên: “Đây là chiếc chõng tre có một không hai, do đích thân Quan gia và anh An đẽo gọt, ráp từng thanh lại đó ạ.”
Chà, thông tin này đúng là khiến tôi phải mở rộng tầm mắt. Tôi khẽ lắc người vài cái, còn thấy cái chõng này không được chắc chắn cho lắm, thì ra là do Trần Thuyên và Thành An bắt tay nhau tạo nên.
Đông Ly giống như thuyết khách của Trần Thuyên, hùng hồn ngợi ca ông chủ, đồng thời đá vài câu sang việc Thành An khéo léo ra sao, chăm chỉ thế nào.
Một trận gió thổi tới, hương hoa thoang thoảng vờn quanh.
Con bé Đông Ly vẫn tiếp tục bài ca của mình, kể lại chi tiết mỗi lần Trần Thuyên đến thăm tôi trong suốt ba năm qua.
Trước mắt chỉ là một màu xanh ngút mắt của cỏ cây nhưng tôi lại như thấy được Trần Thuyên vừa bước qua cánh cổng kia, hai tay ẵm chặt tôi đang ngủ say, từ tốn ngồi xuống chính vị trí này.
Hai chúng tôi ở dưới cây hoa trắng, Trần Thuyên ôm tôi trong lòng, có khi ngước lên nhìn ngắm bầu trời, khi lại cúi xuống như đang thủ thỉ điều gì đó cho tôi nghe.
Đông Ly bảo, Quan gia của con bé sợ tôi nằm trong phòng bí bách nên mới cùng Thành An ráp lại một cái chõng đặt bên ngoài, mỗi lần đến đều bế tôi ra để “tận hưởng chút không khí trong lành”.
“Quan gia luôn nói rằng cô sẽ tỉnh lại.” Đông Ly nhìn tôi, cười bảo.
Liệu niềm tin này có phải là lý do chính mà tôi quay trở lại Đại Việt hay không?
Đông Ly đã quét tước dọn dẹp xong xuôi, quyết định nghỉ ngơi hóng gió cùng tôi một lát.
Con bé khép hờ mi mắt, khẽ khàng ngân nga một giai điệu dịu dàng. Hẳn lúc này Đông Ly đang nghĩ tới Thành An.
Tính cách của Đông Ly hướng ngoại nhưng mỗi lần gặp Thành An đều như muốn thu mình lại, nói năng cẩn trọng hơn, cố gắng tỏ ra mình là một người con gái dịu dàng.
Thành An ở kinh thành, Đông Ly lại lựa chọn theo tôi lên núi, chấp nhận vài tháng mới được gặp người thương một lần. Nếu không phải tình cảm giữa hai người vô cùng bền chặt, chẳng sợ sóng gió thì có lẽ chỉ là một mối đơn phương, chưa kịp tỏ bày.
Theo như tôi quan sát trước nay thì Thành An đối xử với Đông Ly rất tốt, chỉ có điều lại tương tự với cách Đỗ Quân quan tâm tôi ngày xưa. Tức là, có chút tình cảm gì đó không rõ ràng nhưng lại phân định rạch ròi, biến nó thành mối quan hệ giữa anh trai và em gái.
“Cứ nhắc mãi tới Quan gia làm gì? Còn Thành An của em thì sao?” Tôi tủm tỉm chuyển chủ đề, muốn thăm dò thái độ của con bé xem ra làm sao.
Khoé miệng Đông Ly hơi trĩu xuống, ánh mắt như tối lại nhưng rất nhanh, con bé đã lại nhe răng đùa giỡn: “Ôi chao, cái gì mà của em chứ!”
Trong lồng ngực lại xuất hiện cảm giác hụt hẫng khôn cùng, Đông Ly đáng thương của tôi vẫn cứ giữ mãi mối tương tư này suốt mấy năm qua sao?
Tôi hạ giọng: “Ta biết em có tình cảm với anh Thành An mà, hai người hiện tại có gì tiến triển chưa?”
Hai má Đông Ly đỏ bừng, vội cúi đầu xuống không lên tiếng.
Thực ra Đông Ly bằng tuổi Đoàn Niệm Tâm, tức là tính tới bây giờ đã khoảng hai ba, hai tư tuổi, ở thời đại này không còn trẻ trung gì nữa. Vậy mà cứ nhắc đến Thành An là nó lại như biến thành một đứa trẻ con, rụt rè, ngại ngùng, chỉ sợ bị cười trêu.
Tôi còn đang cân nhắc, không biết nên tiếp tục làm công tác tư tưởng cho con bé như thế nào thì Đông Ly đã ngẩng lên, gương mặt mang nét buồn man mác.
Con bé khẽ khàng nói: “Trong lòng anh An… có người khác rồi cô ạ.”
Một câu ngắn gọn nhưng đã chôn vùi biết bao nghẹn ngào của Đông Ly, con bé chỉ mím môi, không dám tỏ thêm bất cứ thái độ nào.
Trước giờ tôi chỉ biết Thành An trên dưới ba mươi tuổi, đã theo Trần Thuyên từ rất lâu, xung quanh không hề xuất hiện một bóng hồng nào. Gương mặt y có thể nói là khá ưa nhìn nếu như không bị một vết sẹo phá hỏng mĩ quan.
Đông Ly lại nói: “Nếu không phải có lần anh An say rượu lỡ lời thì em cũng đâu biết được chuyện này. Bên người anh ấy luôn mang theo một bức tranh, vẽ cảnh hoa sen dưới đêm trăng. Anh An gọi nó là Liên hoa vọng nguyệt.”
Tưởng đâu Thành An chỉ biết đánh đánh đấm đấm, ai ngờ cũng văn vẻ không kém em trai Nhữ Hài nhà tôi ấy nhỉ.
“Anh An không biết vẽ nên tới tám, chín phần bức tranh này là của người con gái kia để lại. Hơn nữa, anh ấy còn tự tay đề hai câu thơ, rằng:
Người đời cười nói vô tri,
Nào ai hiểu thấu nỗi lòng hồng nhan.” (2) Đông Ly cười buồn, dịu dàng ngâm.
Một Nhất đẳng Ngân bài Thị vệ, là người không thể thiếu bên cạnh hoàng đế lại có nỗi niềm riêng, không thể buông tay. Hơn nữa, có vẻ như người trong lòng của Thành An không có cuộc sống hạnh phúc cho lắm, thậm chí y và nàng lại không thể đến với nhau, bức tranh là tất cả còn sót lại giữa hai người.
Đang đà tâm sự nên Đông Ly cũng chẳng ngần ngại mà tiết lộ thêm cho tôi biết về thân thế của Thành An.
Y đi theo Trần Thuyên từ những ngày anh còn là Đông cung Thái tử. Cha của y là binh sĩ tử trận trong cuộc chiến với quân Mông Nguyên, mẹ cũng mất sớm nên từ nhỏ y đã được đưa đến Côi Sơn tự tại phủ Thiên Trường sinh sống. Không rõ vì lý do gì mà Thành An lọt vào “mắt xanh” của Trần Thuyên, được về Thăng Long theo hầu thái tử.
Cũng may là y có chút võ vẽ nên về sau mới lên được chức thị vệ riêng của Trần Thuyên, chứ nếu nhập cung làm nội thị thì mối tình của Đông Ly dành cho y đã chết từ trong trứng nước rồi.
Võ công của Đông Ly tới một nửa là do Thành An đích thân chỉ dạy, được y đặc biệt quan tâm săn sóc nên nảy sinh tình cảm cũng là điều không tránh khỏi.
Con bé Đông Ly này thích Thành An dễ phải đến sáu, bảy năm trời, thậm chí biết y đã có người khác nhưng vẫn âm thầm chịu đựng, không tiến lên cũng không từ bỏ. Về điểm này, tôi chắc chắn không thể so sánh với nó được.
“Ê!”
Dương Gia lớn tiếng gọi từ xa, trên lưng còn đeo một cái giỏ lớn. Trong giỏ là vô số những búp hoa hình bầu dục, to bằng lòng bàn tay. Nhìn qua tôi còn tưởng một giỏ toàn lá cây.
Ông ta ném cái giỏ cho Đông Ly, kéo áo lên lau mồ hôi trên trán rồi nói: “Ngươi mang vào rửa sạch rồi lau khô. Đầu giờ Mão sáng mai thì trải một cái khăn ra sân, đem phơi hết đống này lên đó. Đến chiều tắt nắng thì lại cất vào. Lặp lại như vậy vài ba ngày nhé.”
Đông Ly ôm giỏ trong tay, vâng dạ rất ngoan. Dương Gia còn chưa yên tâm, gọi với theo: “Nhớ là phải cẩn thận kẻo rách, ngày mai đem ra phơi ngoài nắng đấy.”
Ông ta còn nhìn chăm chăm theo Đông Ly, chính xác là cái giỏ kia, như sợ con bé sẽ làm đau đống hoa ấy vậy.
Chắc chắn đây là một loại dược liệu quý hiếm nào đó thì mới có thể khiến thần y Dương Gia phải chăm lo từng tí một như thế.
Tôi nổi lòng tò mò: “Ông cho con hỏi, đó là cây gì thế ạ?”
Ánh mắt Dương Gia vẫn mơ mơ màng màng, vô thức đáp: “Là cây Hoàng Vân…” (3)
Trả lời rồi ông ta mới giật mình khỏi giấc mộng, quay ngoắt lại lườm tôi. Thật sự là gương mặt mỹ nhân hiền lành này không hề phù hợp với tính cách quái gở của Dương Gia chút nào.
Như vừa nghĩ ra điều gì đó vô cùng ác độc, Dương Gia nhếch miệng cười, hai mày hơi nhíu lại khiến tổng thể khuôn mặt đểu cáng đi mấy phần.
Ông ta hất hàm với tôi: “Đợi mấy nữa phơi khô, ta cho ngươi thử một ít nhé. Đốt lên rồi ngửi là thích lắm đấy.”
Tôi co rúm lại một chỗ, lắc đầu quầy quậy: “Dạ thôi, con không dám.”
Từ thái độ của Dương Gia cũng có thể thấy được dù loài cây kia có quý giá đến đâu thì nó cũng không có gì tốt đẹp cả.
Hơn nữa…
“Lá cây này có thể gây nghiện đúng không ạ?” Tôi híp mắt, quyết định dò hỏi Dương Gia.
Toàn thân ông ta chấn động, tròn mắt nhìn tôi. Dương Gia cao giọng: “Nhóc con cũng am hiểu các loại dược liệu sao?”
“Không ạ, nhưng con đã từng nghe nói về loài cây này rồi.” Tôi chậm rãi đáp.
Cây Hoàng Vân thì không biết nhưng tôi có chút ít kiến thức về cần sa, hoa anh túc, coi như đủ dùng. Ví dụ như việc lấy búp hoa phơi khô rồi đốt lên lấy khói để hít, tôi từng dịch một đoạn phim Mỹ nói về vấn đề này nên cũng nắm được cơ bản.
Dương Gia hừ một tiếng, đảo mắt: “Cái thứ ăn trắng mặc trơn ở kinh đô như nhà ngươi, nghe được ở đâu mà nghe. Bốc phét vừa thôi.”
Sao lại có một người đàn ông với giọng điệu đanh đá chua ngoa đến thế nhỉ!
Tôi bực mình: “Phơi khô rồi đốt cháy, khói của nó khi hít vào có thể gây rối trí, hoảng loạn, thậm chí là nhìn thấy ảo giác phải không ạ?”
Lần này thì Dương Gia đã phải thay đổi nét mặt, không còn cau có với tôi nữa.
“Sao ngươi lại biết rõ về cây Hoàng Vân như vậy? Ngươi từng thử rồi hả?” Ông ta trầm giọng.
Trời ơi, người ta là con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, sao lại nghĩ tôi từng dùng chất cấm như thế chứ! Tôi cật lực lắc đầu, sợ rằng ông ta lại ép hỏi mấy câu dạng như vậy nên chuyển chủ đề: “Vì sao loại cây ấy lại tên là Hoàng Vân ạ?”
Đinh ninh rằng chỉ cần hỏi một câu cực kỳ nhàm chán là Dương Gia sẽ mặc kệ, tôi không ngờ ông ta lại quay ngoắt một trăm tám mươi độ, tốt bụng giải thích:
“Dân gian tương truyền, vùng cao có một loài cây chỉ mọc trên những vách đá cheo leo. Cứ đến giữa hè thì chúng mới nở hoa, thoạt nhìn búp hoa có hình dạng không khác gì với lá cây bình thường. Đến khi thời tiết chuyển lạnh là hoa rụng, không ra quả. Lấy hoa phơi khô, có thể bào chế thành một loại dược liệu tác dụng an thần.”
Dương Gia hắng giọng một cái rồi nói tiếp: “Còn lý do vì sao lại gọi là Hoàng Vân… là bởi đống hoa khô ấy mà đốt lên, người hít phải lâu ngày sẽ gặp phải ảo giác mây vàng quấn quanh thân, tưởng mình là thánh thần trên trời phái xuống.”
Ồ, ra là vậy. Hoàng Vân có nghĩa là mây vàng. Loài cây này đáng sợ không kém gì hoa anh túc cả!
“Sao nào?” Dương Gia nhếch mép cười. “Có muốn làm thần tiên không?”
Tôi ha ha hai tiếng rồi dứt khoát quay mặt đi, chẳng dám tiếp chuyện ông ta nữa.
…
Ngày một ngày hai, sức khoẻ của tôi nhanh chóng tốt lên.
Hôm nay Đông Ly theo Dương Gia lên núi, một mình tôi quanh quẩn trong sân, cuối cùng cũng có cơ hội được gặp cô gái mà Đông Ly từng cứu mạng.
Con bé tỏ ra vô cùng thương cảm, kể rằng khi nó tới nơi thì đã thấy nàng ta nằm trong một vũng máu, bên cạnh còn có xác một người đàn ông. Kiểm tra qua mới biết thì ra cô gái chỉ bị ngất đi còn trên người không hề bị thương, máu đều là của người kia.
Hai người bọn họ là phu thê, vợ theo chồng đi khắp đó đây buôn bán. Lần này lên núi lại gặp phải thổ phỉ, không những bị cướp sạch tiền bạc tư trang mà người chồng cũng bị chúng đâm chết. Cô gái kia may mắn được chồng chở che, thoát được một kiếp nạn.
Khi tôi đang dùng khăn lau mặt trên của chõng tre, định bụng ngả lưng ngắm mây trời thì cô gái nọ đã xuất hiện ở cổng tự lúc nào, bộ dáng hơi gượng gạo.
Nàng ta có khuôn mặt thanh tú, mắt nhỏ, sống mũi cao, đôi môi mỏng hơi trĩu xuống. Tóc búi truy kế trên đỉnh đầu, thân mặc viên lĩnh tối màu khiến dáng người càng thêm gầy guộc.
Nếu không cười thì cô gái này trông tương đối buồn bã, có chút gì đó giống với tôi khi suốt ngày bị gọi là “mặt liệt” bởi mỗi lần tôi thả lỏng cơ mặt thì sẽ chẳng có một chút cảm xúc nào được biểu lộ cả.
Tuy nhiên, diện mạo của tôi tương đối tầm thường, chỉ có thể coi là ‘người đẹp vì lụa’. Tức là phải mặc đẹp thì mới được ‘lên hương’. Khác với cô gái kia, dù chỉ khoác lên một chiếc viên lĩnh chẳng đáng đồng tiền thì bằng cách nào đó, nàng vẫn toát ra thần thái cao quý, khiến người ta không khỏi tặc lưỡi mà khen ngợi.
Cô gái chậm rãi tiến lại gần tôi, mỗi bước đi nhẹ nhàng như đang dẫm lên mây.
“Mấy ngày vừa rồi thấy người hơi mệt nên chỉ ở rịt trong phòng, không ngờ nay lại được gặp tiểu thư. Hẳn là cô đã khỏi bệnh rồi?” Nàng khẽ cười, mới lên tiếng đã tạo cảm giác thân thiết hiếm có.
Tôi gật đầu đáp: “Cảm ơn tiểu thư, cũng coi như đã khoẻ hẳn rồi.”
Nói rồi tôi vội chìa bàn tay xuống một bên chõng, ra dấu mời ngồi.
Giọng cô gái thanh và nhẹ, như tiếng chuông sớm, hỏi: “Tên cô là Niệm Tâm phải không? Tôi thường nghe Đông Ly gọi như vậy.”
“Đúng rồi, còn tên cô là gì?” Màn làm quen ban đầu bao giờ cũng phải có mấy câu hỏi nhàm chán như vậy.
“Tôi là Triêu Lộ.”
Tôi liền thốt lên: “Trời ơi! Tên cô hay quá. Nó có nghĩa là gì thế?”
Nàng ta bật cười vì phản ứng của tôi, tay đưa lên che lấy miệng, đây hoàn toàn là cử chỉ của một tiểu thư nhà quyền quý, được dạy bảo rất nghiêm khắc.
“Triêu Lộ trong nhân sinh thí triêu lộ. Đời người ngắn ngủi như giọt sương sớm.” Triêu Lộ ôn tồn giải thích.
Tên thì hay nhưng ý nghĩa lại quá buồn thảm. Bố mẹ kiểu gì mà lại đặt tên cho con như vậy chứ?
Nhận ra được thắc mắc của tôi, Triêu Lộ vội nói: “Đây là cái tên mà tôi tự dành tặng mình. Một là bởi muốn quên đi quá khứ, hai là để tự nhắc nhở bản thân phải sống cho trọn vẹn, không phí phạm bất cứ khoảnh khắc nào.”
Nàng hướng mắt ra xa, lông mi khẽ động. “Mới đó mà đã như cả một đời…”
Tôi nhận ra, dù Triêu Lộ có cười thì gương mặt nàng vẫn thoảng nét buồn bã, khó có thể che giấu. Không biết quá khứ mà Triêu Lộ muốn quên đi khốn khổ đến nhường nào nhưng hiện tại, nàng ta còn phải chịu thêm nỗi đau mất chồng, thật sự bi ai.
“Không biết tiểu thư năm nay bao tuổi? Tôi hỏi để biết cách xưng hô cho đúng ấy mà, mong tiểu thư đừng giận.” Tôi liền gợi sang chủ đề khác.
Triêu Lộ cười đáp: “Tôi hai lăm tuổi, là phụ nữ có chồng rồi… Cô gọi tôi là ‘tiểu thư’ thế này, e rằng hơi sai đó nhé.”
Tôi gãi đầu, khó xử bảo: “Cô hơn tôi những ba, à nhầm, năm tuổi. Vậy tôi gọi cô là chị được không?”
Cô, tôi, tiểu thư, cậu… quả thực rất phiền phức, lại còn xa cách nữa. Tôi đã quan sát Triêu Lộ hồi lâu, lại cảm nhận được nỗi buồn của nàng là thật nên cũng có đôi chút cảm tình.
Triêu Lộ hơi ngây người, dường như phải suy nghĩ đắn đo.
Tôi lại quên mất rồi, thời xưa quan trọng lễ giáo các thứ, đâu dễ dàng làm thân như hiện đại được chứ?
“Không vấn đề.” Triêu Lộ gật gù. “Vậy tôi sẽ là chị của Niệm Tâm nhé.”
Tôi vui mừng đồng ý.
Cô nàng Triêu Lộ này, cần nhan sắc có nhan sắc, muốn học thức có học thức, là một cô gái mà người gặp người yêu thương, ngắm hoa hoa nở rộ. Đáng ra nàng phải có một cuộc sống hạnh phúc trong nhung lụa, được ăn sung mặc sướng thay vì gặp nạn giữa đường rồi trở thành goá phụ như vậy…
“Phải rồi, vậy tên của Niệm Tâm có nghĩa là gì?” Triêu Lộ à lên một tiếng.
Đến lượt tôi ngơ người, cái tên này là do ông nội và ông ngoại cùng nhau nghĩ ra để đặt cho tôi. Mẹ còn kể là ban đầu bố tôi phản đối tới mức cả nhà cãi nhau ầm ĩ, vì chưa cần biết tên này có nghĩa là gì thì nghe đã thấy buồn rồi, lại còn giống Trung Quốc nữa. Tuy nhiên như mọi người thấy đó, không những ở thế kỷ hai mốt mà về với Đại Việt thì tôi cũng đều phải mang tên Niệm Tâm. Rõ là duyên phận phải gắn lấy nhau rồi.
Tôi lúng búng như gà mắc tóc, không ngờ lại lộ ra là mình kém văn dốt chữ trong tình cảnh thế này.
Đấy, dù đã tốt nghiệp đại học rồi mà quay về đây vẫn là một con nhõi mù dở, đến tên của mình mà không biết nghĩa nữa thì thôi. Niệm Tâm chẳng lẽ lại dịch là tấm lòng hoài niệm? Thôi, bỏ đi mà làm người!
Triêu Lộ là một cô gái đáng mến, thấy tôi cứ lúng ta lúng túng, câu được câu chăng liền mỉm cười, tay vẽ lên không trung vài nét.
“Chữ Niệm có lẽ là viết như thế này, mang bộ Tâm. Nếu là Niệm Tâm, thì có thể mang nghĩa tạc dạ ghi nhớ. Hoặc là… ừm…” (4)
Nàng ta tỏ vẻ lưỡng lự, nhưng rồi vẫn lên tiếng: “Một lòng mong mỏi, nhớ nhung.”
Tiếng Triêu Lộ nhẹ như gió thoảng nhưng lại khiến tôi phải rùng mình. Trong lòng chợt dâng lên cảm giác bức bối khó tả, tôi vội đưa tay lên ôm lấy ngực, hít thở khó khăn khôn cùng.
Tôi biết tên mình không bình thường chút nào, nhưng cũng đâu cần phải đặc biệt đến mức ấy chứ?
Từ xa truyền lại tiếng vó ngựa dồn dập, tôi và Triêu Lộ cùng nghiêng đầu nhìn, chỉ thấy bụi bay mù mịt.
Con đường mòn phía trước thấp thoáng bóng hai người con trai đang cưỡi trên lưng hai con tuấn mã, phi nước kiệu về hướng chúng tôi.
Dải lụa tung bay, gương mặt bạc đi vì sương gió.
Trong nắng chiều như rải từng hạt ngọc lấp lánh, vó ngựa còn chưa kịp dừng hẳn, Trần Thuyên đã tung dây cương rồi nhảy xuống đất. Cả người anh lảo đảo suýt ngã nhưng lập tức trụ vững, chạy lại gần tôi.
Mới hơn hai ngày, sao tin tức của Đông Ly lại đến nhanh thế nhỉ?
Tôi đứng bật dậy, thâm tâm đột nhiên hiểu rõ cảm giác của Trần Thuyên đến nhường nào.
Đúng, đối với tôi mới chỉ là vài ngày, nhưng với anh đã là ba năm cách trở.
Chừng ấy thời gian, tuy chẳng thể nào sánh với mười năm của cậu bé thái tử ngày ấy nhưng lại là một thử thách muôn trùng khó khăn.
Hai tháng được gặp một lần, một người trò chuyện, một người lặng thinh, chìm sâu trong giấc ngủ tưởng chừng sẽ kéo dài tới vạn năm.
Trần Thuyên vẫn đến, anh luôn tin rằng tôi chắc chắn sẽ tỉnh lại, chắc chắn sẽ quay về với anh.
Tựa như bao lời nói cũng đều là thừa thãi, Trần Thuyên nhanh chóng kéo tôi vào lòng, siết chặt. Hương trà quen thuộc xen lẫn với bụi bặm dặm đường, tôi mỉm cười, vòng tay ôm lấy tấm lưng rộng mà vỗ về.
Anh không lên tiếng, chỉ giam lấy tôi trong vòng tay.
Một đoá hoa trắng rơi xuống từ tán cây cao lớn, vô tình đậu lên vai Trần Thuyên.
Ba năm qua, đã bao lần anh ôm tôi ngồi dưới gốc cây, một mình lặng ngắm hoa rơi?
Hốc mắt cay xè, tôi khẽ nói: “Em đã về với chàng rồi đây.”
—-
Vẽ bóng cầu treo, ngược dòng suối
Một vệt nắng chiều, sóng nước reo.
Lược dịch từ câu:
Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành,
Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại minh.
(Trích thơ Vũ Lâm thu vãn – Trần Nhân Tông)
(1) Trấn Thiên Hưng: Một phần của tỉnh Sơn La, Lào Cai, Phú Thọ.
(2) Người đời cười nói vô tri
Lược dịch từ câu:
(Trích thơ Mỹ nữ thiên – Tào Thực)
(3) Cây Hoàng Vân là do tác giả hư cấu nha mọi người.
(4) Niệm Tâm: Viết là 念心