Chương 439: Lúc không luyện kiếm thì mài kiếm (phần 1)
- Trang Chủ
- [Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
- Chương 439: Lúc không luyện kiếm thì mài kiếm (phần 1)
Hôm nay có người ở phòng kiếm đến ngoài nhà báo cho Trần Bình An, lại có phi kiếm xứ khác bay đến đảo Thanh Hiệp. Trần Bình An vội vàng rời khỏi nhà.
Nếu không có gì bất ngờ, sẽ là hồi âm của Chung Khôi.
Quả nhiên sau khi đến phòng kiếm, nơi thu nhận phi kiếm truyền thư từ bốn phương tám hướng, Trần Bình An đã nhận được một bức mật thư đến từ núi Thái Bình.
Chỉ tiếc trong thư Chung Khôi nói gần đây có việc gấp, phải nhổ củ cải ra khỏi đất. Các nơi dưới núi Đồng Diệp châu còn có yêu ma quấy phá, mặc dù không nguy hiểm như lúc trước, nhưng lại càng phiền phức hơn. Có thể nói là yêu tinh quỷ quái giết không hết, hắn tạm thời không thể thoát ra được. Nếu có thời gian rảnh thì hắn sẽ chạy tới, nhưng bảo Trần Bình An đừng ôm hi vọng, Chung Khôi hắn sắp tới nhất định không thể rời khỏi Đồng Diệp châu.
Trần Bình An hơi lo lắng, dù sao hôm nay Chung Khôi chẳng những đã bị thư viện hủy bỏ danh hiệu quân tử, thân thể còn biến thành quỷ vật. Một khi gặp phải yêu ma cảnh giới Nguyên Anh, không còn thân phận thư viện, sẽ giống như mất đi một lá bùa hộ mạng lớn nhất.
Sau khi lo lắng, Trần Bình An cất mật thư, rời khỏi phòng kiếm, bắt đầu nói thầm, trong lòng cười mắng Chung Khôi không trượng nghĩa.
Trong thư đã nói một loạt tin tức tương tự công báo của hồ Thư Giản, chẳng hạn như Diêu Cận Chi vào cung thông qua tuyển chọn, ba hoàng tử Đại Tuyền biểu hiện đặc sắc, thủy thần nương nương sông Mai hồng phúc ngang trời, phủ Bích Du đã được thăng làm cung thủy thần Bích Du. Những chuyện như vậy nói cả một đống, nhưng lại không viết một môn pháp thuật lệnh quỷ rời đất, mời linh sống lại nào.
Sau khi Trần Bình An rời khỏi phòng kiếm không lâu, đảo chủ Lưu Chí Mậu lại đột ngột ghé bước đến nơi này, khiến tu sĩ trong phòng kiếm đều câm như hến.
Đây vốn là chuyện hiếm lạ khiến bọn họ không thể tưởng tượng, bởi vì Tiệt Giang chân quân gần như chưa bao giờ đi vào phòng kiếm này. Một là đảo chủ cảnh giới Nguyên Anh đã có mộ kiếm nhỏ tiên gia thượng phẩm của mình, thu phát phi kiếm càng kín đáo và nhanh nhẹn hơn. Hai là Lưu Chí Mậu ở đảo Thanh Hiệp ít giao du với bên ngoài, ngoại trừ thỉnh thoảng đi tới phủ Xuân Đình của Cố Xán, cũng chỉ có đệ tử đích truyền Điền Hồ Quân và đảo chủ của các hòn đảo chư hầu, mới có cơ hội gặp mặt được lão.
Hai tay Lưu Chí Mậu đặt sau người, khom lưng cúi đầu, cẩn thận nhìn chăm chú thanh phi kiếm truyền thư của núi Thái Bình, còn đang nằm trong một “máng ngựa” trên giá hấp thu linh khí, chắc là đang xác nhận ba chữ “Núi Thái Bình” thật hay giả.
Tại Bảo Bình châu, mỗi thanh phi kiếm truyền thư xuất xứ từ đại tông tiên gia, thường quang minh chính đại dùng bí thuật gia truyền khắc tên của tông môn nhà mình. Bản thân việc này đã là một sự uy hiếp to lớn, chẳng hạn như Thần Cáo tông, miếu Phong Tuyết và núi Chân Vũ đều làm như thế.
Ngoại trừ những thế lực này, còn có vườn Phong Lôi của kỳ tài trời phú Lý Đoàn Cảnh, hơn nữa cũng có thể phục chúng. Thậm chí nửa số phi kiếm truyền thư trong vườn Phong Lôi, còn do Lý Đoàn Cảnh, người đứng đầu cảnh giới Nguyên Anh xứng đáng của Bảo Bình châu, tự mình dùng mũi của phi kiếm bản mệnh khắc lên hai chữ “Phong Lôi”.
Có điều nghe đồn Lý Đoàn Cảnh đã binh giải qua đời, vườn Phong Lôi giao cho hai người trẻ tuổi Hoàng Hà và Lưu Bá Kiều trấn giữ, cộng thêm tử địch núi Chính Dương nhanh chóng quật khởi không thể ngăn cản. Cho dù Hoàng Hà rất nổi bật, Lưu Bá Kiều cũng có hi vọng đại đạo, nhưng vườn Phong Lôi không còn Lý Đoàn Cảnh, có thể xem là vườn Phong Lôi sao? Dù gì thanh thế hôm nay cũng không lớn bằng ngày trước.
Hiện giờ tu sĩ trên núi Bảo Bình châu đều đang suy đoán, vườn chủ tân nhiệm Hoàng Hà, người đã biểu hiện xuất sắc trên Thần Tiên Đài miếu Phong Tuyết, rốt cuộc khi nào mới có thể thật sự gánh vác được trách nhiệm.
Thông thường gặp phải phi kiếm có khắc tên, một nhóm nhỏ tu sĩ sông núi dám lén lút chặn đường phi kiếm, đều sẽ chủ động thả phi kiếm về, tuyệt đối không dám tự tiện phá vỡ cấm chế, rước lấy họa sát thân cho mình.
Những tiên gia trên núi khác thì đều rất hiểu ngầm, không có mặt mũi làm chuyện như vậy. Tại Long Tuyền kiếm tông, địa tiên Đổng Cốc đã từng đề nghị với Nguyễn Cung, hôm nay chúng ta đã là sơn môn chữ “Tông”, liệu có thể khắc chữ lên phi kiếm truyền thư hay không. Nguyễn Cung luôn không nói cười tùy tiện, cũng rất ít khi hòa nhã với đệ tử trong môn. Nghe xong sắc mặt ông ta tái xanh, dọa cho Đổng Cốc vội vàng thu lại lời nói.
Khi đó Nguyễn Cung tự giễu một câu: “Một tông môn còn không có cảnh giới Nguyên Anh, tính là sơn môn chữ ‘Tông’ cái gì.”
Người chủ sự phòng kiếm lấy can đảm nhỏ giọng nói:
– Đảo chủ, thanh phi kiếm này không chỉ khắc ba chữ “Núi Thái Bình”, bên kia thân kiếm còn có khắc chữ.
Lưu Chí Mậu ừ một tiếng, vươn một ngón tay ra, nhẹ nhàng lắc một cái. Thanh phi kiếm lơ lửng trong rãnh kiếm kia khẽ lật lại, lộ ra ba chữ “Tổ Sư Đường”.
Lưu Chí Mậu nheo mắt lại, trong lòng thở dài, xem ra tiên sinh sổ sách kia đã quen biết nhân vật rất tài giỏi ở Đồng Diệp châu.
Lúc trước lão chịu hạ mình, chủ động đến nhà xin lỗi, nói chuyện thẳng thắn với Trần Bình An. Đối với lời nói của Trần Bình An là “hôm nay Đại Ly còn thiếu ta một ít thứ”, lão cảm thấy nửa tin nửa ngờ. Hiện giờ vẫn không tin tưởng hoàn toàn, nhưng xem như là tin nhiều thêm một phần, hoài nghi dĩ nhiên cũng ít đi một phần.
Phi kiếm truyền thư của tổ sư đường núi Thái Bình, tiên gia lớn thứ ba ở Đồng Diệp châu. Nếu đặt ở Bảo Bình châu có lãnh thổ nhỏ nhất trong chín châu, đại khái tương đương với phi kiếm của phòng Liên Hoa Thần Cáo tông, xuất xứ từ tay thiên quân Kỳ Chân, vẫn có thể dọa người.
Lưu Lão Thành đảo Cung Liễu đã sớm không để hồ Thư Giản vào mắt, chưa chắc đã quan tâm. Nhưng Lưu Chí Mậu làm một quân chủ giang hồ đã trắc trở như vậy, vẫn phải cân nhắc một chút.
Phi kiếm vượt châu qua lại một chuyến, tiêu hao rất nhiều linh khí, tốn rất nhiều tiền thần tiên.
Mấy tu sĩ quản sự phòng kiếm đảo Thanh Hiệp đã đặc biệt thương nghị một phen. Ngoại trừ phải bẩm báo cho Điền Hồ Quân về chuyện phi kiếm đến từ “núi Thái Bình”, liệu có nên “thuận miệng” nói một chút về mấy đồng tiền tiểu thử kia hay không.
Có điều sau khi cân nhắc một phen, bọn họ lại cắn răng, quyết định không nên dùng chuyện nhỏ này đi làm phiền Điền Hồ Quân. Cuối cùng mọi người của phòng kiếm tự móc tiền túi, ứng phó với khoản chi tiêu mấy đồng tiền tiểu thử này, từ trên xuống dưới phân ưu một chút cho đảo Thanh Hiệp, cùng nhau vượt qua cửa ải khó khăn.
Lưu Chí Mậu dời mắt đi, quay đầu hỏi:
– Tiền thần tiên mà thanh phi kiếm này ăn của phòng kiếm, Trần tiên sinh có nói gì không?
Người chủ sự phòng kiếm lắc đầu nói:
– Chưa từng, hình như Trần tiên sinh cũng không hiểu rõ về quy củ phòng kiếm lắm.
Lưu Chí Mậu cười hỏi:
– Vậy các ngươi có ám thị cho Trần tiên sinh không? Quy củ mà, nói một chút cũng không sao, nếu không sau này phòng kiếm sẽ còn phải lỗ tiền.
Người chủ sự trong lòng sợ hãi, lập tức đáp:
– Phòng kiếm tuyệt đối không hề ám thị.
Lưu Chí Mậu lẩm bẩm nói:
– Trần tiên sinh này, càng ngày càng không xem như người ngoài của đảo Thanh Hiệp chúng ta rồi. Ừm, thật ra là chuyện tốt.
Lão lại hỏi:
– Hai ngày trước ở chỗ các ngươi, Trần tiên sinh lại gởi hai bức thư đến quê nhà?
Người chủ sự gật đầu nói:
– Đều là phi kiếm truyền thư tới quận Long Tuyền, có điều hơi khác nhau. Một bức đi đến núi Phi Vân, còn một bức đi đến núi Lạc Phách.
Lưu Chí Mậu đột nhiên hỏi:
– Các ngươi cảm thấy Trần tiên sinh này có dễ giao tiếp không?
Mọi người của phòng kiếm đưa mắt nhìn nhau. Lưu Chí Mậu khoát tay nói:
– Bỏ đi, các ngươi vốn không đi tới một bước kia.
Lão bước ra một bước, rời khỏi căn phòng kiếm khí hỗn loạn, trở về phủ Hoành Ba của mình.
Điền Hồ Quân trước đó tự mình bẩm báo tin tức với lão, vẫn luôn đứng yên tại chỗ. Lưu Chí Mậu nói:
– Cứ đi tìm theo như yêu cầu của Trần Bình An, bất kể tốn bao nhiêu nhân lực vật lực, đều xem như công việc hàng đầu của đảo Thanh Hiệp sắp tới. Nhớ đừng gióng trống khua chiêng, cứ lặng lẽ tiến hành là được rồi, sau đó dẫn người về đảo Thanh Hiệp. Trần Bình An đủ thông minh, lại không phải giao tiếp với phủ Xuân Đình, các ngươi cũng không cần vẽ rắn thêm chân.
Điền Hồ Quân gật đầu nhận lệnh, cũng không nói lời thừa, dù sao sư phụ này của cô trước giờ không thích nghe những lời kia. Nói một đống ngôn ngữ a dua, còn không bằng một chuyện nhỏ được ghi vào sổ công lao, sư phụ ngược lại sẽ xem.
Lưu Chí Mậu cười nói:
– Hôm nay phòng kiếm hiếm hoi đã làm được một chuyện tốt, bốn người kia gồm cả người chủ sự, còn xem như thông minh. Ngươi hãy đi lấy hồ sơ bí mật, xóa bỏ ghi chép bọn hắn đã đút túi riêng gần trăm năm qua. Hơn bốn mươi đồng tiền cốc vũ kiếm được bất chính kia, coi như là thù lao ngoài định mức, bọn hắn không có công lao cũng có khổ lao.
Điền Hồ Quân gật đầu. Theo như sách lược sư phụ định ra, sau khi lão trở thành quân chủ giang hồ, vốn sẽ có một đợt khao thưởng công thần và giết gà dọa khỉ thanh thế to lớn, tiến hành đồng bộ, có một số ở trên mặt bàn, có một số ở phía dưới bàn.
Nhưng hôm nay tình hình thay đổi, đã có thêm một Lưu Lão Thành đảo Cung Liễu. Kế hoạch khao thưởng đã không hợp thời nữa, chỉ có thể trì hoãn, đợi đến khi tình hình sáng tỏ rồi tính sau. Nhưng có một số lòng người rục rịch không biết điều, khiến cho việc giết gà dọa khỉ sẽ càng mạnh hơn. Hiện giờ nếu ai dám tìm xui xẻo, vậy thì sau này sẽ bị xử lý, cộng thêm loạn thế dùng hình luật nghiêm khắc, thật sự sẽ chết người.
Điền Hồ Quân lặng lẽ rời khỏi phủ Hoành Ba, trở về đảo Tố Lân nơi mình mở phủ đệ. Trong phủ đầy tiếng trò chuyện líu ríu, nhìn thấy địa tiên “lão tổ” này, mọi người đều không ngừng nịnh hót, có một số là thật lòng, nhưng phần nhiều là hư tình giả ý.
Đối với những chuyện này, Điền Hồ Quân cũng không cảm thấy thích hoặc chán ghét. Tại hồ Thư Giản kiếm cơm ăn, nếu không làm như vậy, cả đời chỉ làm trâu làm ngựa cho người khác, thảm hơn một chút thì sẽ từ từ chết đói.
Trước tiên cô tìm hai ông lão tâm phúc đã cùng mình dọn đến phủ đệ đảo Tố Lân, đi báo cho phòng Điếu Ngư về chuyện mà Trần Bình An đề xuất và Lưu Chí Mậu dặn dò. Phòng Điếu Ngư là nơi có kinh nghiệm xử lý những chuyện tương tự. Sau đó hợp sức với hai đảo chủ của đảo chư hầu có quan hệ tốt với cô, hoàn thành chuyện này.
Cô một mình băng qua con đường bí mật dài đến mấy dặm, lặng lẽ đi tới một mật thất chuyên dùng để tu đạo. Mật thất nằm bên dưới phủ đệ trong lòng đảo Tố Lân, càng đi xuống thì thủy vận do tinh hoa linh khí ngưng tụ thành càng dày đặc.
Cái gọi là mật thất, thực ra chỉ là đặt một cái ghế dựa bên cạnh một mạch nước ngầm mà thôi. Cả lòng đất hiện ra màu xanh thẫm nhàn nhạt do thủy vận cụ thể hóa. Chẳng những như vậy, trên đỉnh mật thất còn rỉ ra từng tia sáng màu xanh nhạt, sau đó phân biệt tràn vào trong miệng những con giao long điêu khắc trên ghế dựa.
Điền Hồ Quân ngồi trên chiếc ghế rồng cũ kỹ tồi tàn, hít sâu một hơi, vẻ mặt say mê. Hai tay cô nắm lấy tay vịn của ghế, không ngừng có khí tức giao long và linh khí thủy vận thấm vào lòng bàn tay của cô, tràn vào mấy kinh huyệt bản mệnh, linh khí xao động rèn luyện đạo hạnh.
Gương mặt Điền Hồ Quân vặn vẹo, trên mặt vừa thống khổ vừa vui vẻ, cả người mồ hôi đầm đìa.
Sau một canh giờ, Điền Hồ Quân mở mắt, nhổ ra một ngụm khí đục ô uế. Cô khẽ vung tay áo, ngụm khí đục kia liền theo mạch nước ngầm chảy vào hồ Thư Giản, không đến mức tiêm nhiễm ăn mòn linh khí thủy vận quý giá ở đây.
Điền Hồ Quân hơi mệt mỏi, phần nhiều vẫn cảm thấy hài lòng. Con đường tu đạo, gian khổ trong đó khiến người ta sợ hãi, nhưng vui vẻ trong đó còn hơn xa tình ái nhân gian. Vì vậy trong mắt luyện khí sĩ năm cảnh giới trung đã thay da đổi thịt, nhất là tu sĩ cảnh giới địa tiên, những thề non hẹn biển và quyết tâm không thay lòng giữa nam nữ, thật sự chỉ giống như gãi ngứa mà thôi.
Nhưng không có chuyện gì tuyệt đối. Nếu đại đạo bản thân liên quan đến cửa ải tình ái, ngay cả tu sĩ cảnh giới Nguyên Anh cũng sẽ rơi vào vũng bùn, không chịu nổi gánh nặng, không thể thoát ra ngoài được.
Về chuyện này, Lý Đoàn Cảnh vườn Phong Lôi chính là ví dụ tốt nhất.
Với thiên phú tu đạo có thể nói là nổi bật xuất chúng của người này, vốn nên bước vào kiếm tiên năm cảnh giới cao sớm hơn cả Ngụy Tấn miếu Phong Tuyết mới đúng. Một khi bước vào cảnh giới Ngọc Phác, vượt qua rãnh trời kia, cảnh giới Tiên Nhân cũng có thể là vật trong túi của Lý Đoàn Cảnh.
Đến lúc đó ai mới là tu sĩ bản thổ đứng đầu Bảo Bình châu thật sự? Một kiếm tu cảnh giới thứ mười hai có đủ tư cách hay không? Nên biết hôm nay người đứng đầu tu sĩ Bảo Bình châu, thiên quân Đạo gia Kỳ Chân, chỉ mới vừa bước vào cảnh giới Tiên Nhân mà thôi.
Nhưng nhân vật phong lưu chiếm giữ khí vận kiếm đạo một châu như Lý Đoàn Cảnh, lại không bước qua được cửa ải mà đám người như Điền Hồ Quân đều không để ý.
Đại đạo khó lường, không ngoài như vậy.
Điền Hồ Quân ngừng suy nghĩ, bắt đầu cẩn thận xem xét tiền trình của mình.
Trên đại đạo cảnh tượng vô cùng đẹp đẽ, nhưng cũng không thể chỉ nhìn phong cảnh tráng lệ của người khác, mình cũng nên trở thành phong cảnh mà người khác hâm mộ, đó mới là chính đạo.
Vừa nghĩ tới tiểu sư đệ nằm trên giường bệnh, tâm tình của Điền Hồ Quân lại phức tạp.
Cô đứng lên, trong nháy mắt giũ bỏ mồ hôi và vết bẩn trên quần áo.
Sau đó cô đi tới trước mấy bước, đứng bên mạch nước ngầm, lâm vào trầm tư.
Giữa hai thầy trò Lưu Chí Mậu và Cố Xán, thực ra tình cảm trong lòng Điền Hồ Quân càng nghiêng về tiểu sư đệ Cố Xán, chứ không phải sư phụ bụng dạ thâm trầm, vì đại đạo có thể giết bất cứ ai… Hơn nữa sư phụ sẽ giết rất đột ngột, trước khi chết cũng không biết nguyên do, đây mới là chỗ đáng sợ.
Ngược lại Cố Xán mặc dù ngạo mạn, không biết buôn bán, nhưng Điền Hồ Quân cô chỉ cần kiên trì ủng hộ, ngược lại sẽ dễ bỏ ra một phần, nhận được hai phần báo đáp. Dù sao tiểu sư đệ vẫn là một đứa trẻ, có thể ứng phó với thế lực các phương nhìn như ăn sâu bén rễ, thực ra chỉ là bề nổi. Hắn lại không hiểu rõ về mấy gốc rễ ẩn nấp dưới dáy hồ, đó mới là quy củ thật sự của hồ Thư Giản.
Cố Xán không biết dùng người, chỉ biết giết người, không biết lui bước gìn giữ cái đã có, chỉ biết một mực tiến tới, chung quy không phải là kế lâu dài. Cho nên lý trí nói với Điền Hồ Quân, có thể đặt cược lớn vào Cố Xán, nhưng tuyệt đối không thể khuynh gia bại sản để ủng hộ, bởi vì hắn quá không theo lẽ thường.
Điền Hồ Quân cô còn kém xa không thể đối đầu với sư phụ Lưu Chí Mậu, rất có thể đời này cũng không có hi vọng chờ đến ngày đó.
Thực ra Điền Hồ Quân rất nuối tiếc, bởi vì trong vòng ba năm ngắn ngủi, Cố Xán đã có thể đánh hạ một giang sơn nhỏ. Nhưng sau khi lên địa vị cao, lại không suy nghĩ làm thế nào canh giữ giang sơn.
Thực ra cô có thể dạy hắn từng chút, dốc lòng truyền thụ tâm đắc mà mình vất vả hơn hai trăm năm suy nghĩ ra. Nhưng Cố Xán trưởng thành thật sự quá nhanh, đến mức ngay cả Lưu Chí Mậu và cả hồ Thư Giản đều cảm thấy trở tay không kịp, hắn làm sao có thể nghe ý kiến của Điền Hồ Quân?
Cố Xán có tư chất, tính tình và thiên phú đều rất tốt. Có lẽ nếu cho hắn thêm mấy chục năm, từ từ rèn luyện tâm tính, không chừng sẽ có thể thật sự ngang hàng với sư phụ Lưu Chí Mậu.
Đáng tiếc Lưu Lão Thành đã tới, trong thoáng chốc đánh cho Cố Xán và con cá chạch kia của hắn trở về nguyên hình.
Trong sách sử nói “coi trọng phiên trấn (quân trấn bảo vệ), đất đai binh giáp, sinh sát trong tay”.
Nhưng không thể mù quáng. Hồ Thư Giản chung quy chỉ nằm ở một góc Bảo Bình châu, lại nghênh đón thế cuộc mới ngàn năm chưa từng có, nguy hiểm và cơ hội lớn cùng tồn tại.
Kỵ binh Đại Ly hay vương triều Chu Huỳnh cũng vậy, cho dù cuối cùng ai trở thành thái thượng hoàng của hồ Thư Giản, đều hi vọng sở hữu một “phiên vương” có thể khống chế thế cuộc hồ Thư Giản. Nếu không làm được, cho dù đã thành quân chủ giang hồ cũng sẽ bị thay thế, trong nháy mắt mất hết quyền hành.
Trước giờ Điền Hồ Quân không cảm thấy tiểu sư đệ Cố Xán làm tệ, trên thực tế Cố Xán đã khiến cô cảm thấy khiếp sợ và kính nể. Nhưng dường như… vẫn chưa đủ tốt, mà đại thế lại không chờ người.
Hiện giờ đại thế cuốn đến, phải làm sao đây?
Điền Hồ Quân đột nhiên nhớ tới tiên sinh sổ sách trẻ tuổi ở cổng sơn môn, có lẽ sẽ ngăn cản được một chút nước lũ đại thế bao trùm hồ Thư Giản và đảo Thanh Hiệp, nhưng thật sự có thể xoay chuyển tình hình sao?
Cô lắc đầu, quá khó rồi.
———
Trần Bình An trở về nhà, ngồi phía sau bàn sách. Hồ sơ cần thu thập chỉnh lý đều đã sắp xếp ổn thoả.
Âm hồn quỷ vật tạm thời có thể thu gom được, đã bàn bạc xong với Du Cối đảo Nguyệt Câu và tu sĩ Âm Dương gia đảo Ngọc Hồ. Mã Viễn Trí phủ Chu Huyền vẫn chưa đáp ứng bán ra, nhưng cũng đã hứa hẹn sẽ gom góp sàng lọc âm vật. Chỉ chờ Trần Bình An hoàn thành chuyện kia, phủ Chu Huyền sẽ lấy ra tất cả âm vật chuẩn bị ổn thỏa, đến lúc đó đáng giá bao nhiêu thì sẽ bán bấy nhiêu.
Có điều theo thời gian trôi qua, số lần Trần Bình An gặp trắc trở ở chỗ Lưu Trọng Nhuận đảo Châu Sai càng ngày càng nhiều. Quỷ tu Mã Viễn Trí dường như cũng hơi nản lòng, không còn kiên quyết như trước, dự định nhượng bộ một bước. Chỉ cần Trần Bình An mời được Lưu Trọng Nhuận lên đảo Thanh Hiệp, hắn sẽ giao ra một nửa âm vật tích góp trong phướn chiêu hồn và giếng nước kia, xem như là tiền đặt cọc.
Thư mà Trần Bình An gởi cho Ngụy Bách núi Phi Vân, chủ yếu là hỏi thăm việc mua núi, cùng với mấy chuyện nhỏ nhờ Ngụy Bách giúp đỡ.
Thư nhà gởi đến núi Lạc Phách, lại là bảo Chu Liễm không cần lo lắng, hắn ở hồ Thư Giản cũng không gặp nguy hiểm, không cần đến đây tìm hắn. Còn nhờ Chu Liễm chuyển lời cho Bùi Tiền, cứ an tâm ở lại quận Long Tuyền. Có điều ba mươi tết năm nay, đừng quên gọi thằng bé áo xanh và cô bé váy hồng tới nhà tổ ngõ Nê Bình gác đêm. Nếu như sợ lạnh, hãy đến trấn nhỏ mua than củi tốt hơn một chút, buổi tối gác đêm đốt một lò than.
Qua giờ Tý rồi, nếu thật sự mệt rã rời thì cứ ngủ là được, nhưng hôm sau nhớ dán câu đối xuân và chữ “Phúc”. Những thứ này đừng tiêu tiền đi mua, ông lão họ Thôi ở tầng hai lầu trúc viết chữ rất đẹp, cứ nhờ ông ta viết là được. Giấy đỏ dùng để viết câu đối xuân và chữ “Phúc”, năm ngoái chưa dùng hết, vẫn còn dư đủ, cô bé váy hồng biết cất ở đâu.
Cuối cùng hắn dặn dò Bùi Tiền, sáng sớm mùng một tháng giêng, lúc đốt pháo ở nhà tổ ngõ Nê Bình, không nên quá phô trương. Các nhà trong ngõ Nê Bình đều khá nhỏ, cửa ngõ đường đi hẹp, đừng đốt pháo quá nhiều. Nếu cảm thấy chưa đã ghiền, vậy thì trở lại núi Lạc Phách mà đốt, pháo chất đống có nhiều cũng không sao. Nếu ngại chặt trúc làm pháo quá phiền phức, có thể mua ở tiệm trong trấn nhỏ, chút tiền này không cần quá tiết kiệm.
Về phần bao lì xì năm mới, cho dù Trần Bình An hắn không ở quê nhà, nhưng vẫn sẽ có. Mùng một hoặc mùng hai, bằng hữu của hắn là đại thần núi Nhạc Ngụy Bách sẽ lộ diện, đến lúc đó mọi người đều có phần. Nhưng lúc đòi bao lì xì, không được quên nói mấy câu chúc mừng, càng không được vô lễ với Ngụy tiên sinh.
Trần Bình An cầm lấy một cây bút lông trên giá gỗ, cán bút làm bằng trúc tía, khẽ hà một hơi. Hắn lại sững sốt, để bút xuống, cảm thấy nhức đầu, phần nhiều vẫn là hổ thẹn.
Giá bút trên bàn là Trần Bình An tiện tay chế tạo, bút lông lại là do đảo chủ đảo Tử Trúc tặng kèm. Khi đó Trần Bình An mở miệng xin người ta ba cây trúc tía, đảo chủ làm người tốt đến cùng, lại tặng cho hắn hai cây bút lông đặc chế của đảo Tử Trúc. Dĩ nhiên là cán bút làm bằng trúc tía thượng phẩm, mũi bút có một đoạn nhỏ trong suốt, cực kỳ huyền diệu, là bí mật gia truyền của đảo chủ đảo Tử Trúc.
Cho dù là luyện khí sĩ năm cảnh giới thấp, chỉ cần nhẹ nhàng hà ra một ngụm linh khí, sẽ có thể giống như chấm đầy mực nước, hạ bút tự nhiên, nét mực thơm lừng. Thậm chí tờ giấy còn có thể nhờ đó mà phòng mối mọt trăm năm. Cho nên “bút Hồ Trúc” này rất được ưa chuộng trên núi dưới núi vương triều Chu Huỳnh xa xôi, là đồ trang trí hàng đầu trên bàn của quan to quyền quý. Cho dù không viết chữ, chỉ treo trên giá bút ra vẻ một chút, vẫn có thể khiến chủ nhân ngằm nghía thấy vui.
Khi đó Trần Bình An mặt dày nhận lấy, xin hai cây bút lông đầu nhọn, rất thích hợp để viết chữ khải nhỏ.
Hiệu quả của nó cũng tuyệt diệu giống như cây bút Tiểu Tuyết năm xưa Lý Hi Thánh tặng. Sau khi hà hơi thành mực, nếu linh khí quá nhiều, chỉ cần gác hoặc treo lên giá bút, sẽ không có “mực nước” rơi xuống. Còn nếu ít linh khí, viết được một nửa đã không còn mực, chỉ cần lại nhẹ nhàng hà một hơi mà thôi, vô cùng thuận tiện.
Hơn nữa nếu khiếu huyệt bản mệnh phân ra thuộc tính ngũ hành, nét mực cũng sẽ có phân chia màu sắc, cực kỳ thực dụng. Cho nên đây là thứ yêu thích của rất nhiều nữ tu sĩ trên núi viết thư qua lại.
Trần Bình An đã không luyện quyền và luyện khí rất lâu, cộng thêm trận đại chiến với Lưu Lão Thành. Thân thể dù đang chậm rãi khôi phục, nhưng cho đến khoảnh khắc vừa rồi, hắn mới ý thức được trong hai kinh huyệt bản mệnh của mình, linh khí đã khô kiệt đến mức như vậy.
Khiếu huyệt chỗ văn mật màu vàng đã đầy rẫy vết thương, cực kỳ tan vỡ. Không cần phải nói, tối hôm đó cầm thanh Kiếm Tiên kia, giống như tát cạn ao bắt cá, đốt rừng để săn bắn, cho nên cũng tạo thành ảnh hưởng với “Thủy phủ” nơi đám người tí hon áo xanh tụ tập. Chỉ là ảnh hưởng này lớn hơn dự tính của Trần Bình An, khiến cho linh khí Thủy phủ không còn giọt nào đúng như ý nghĩa.
Trần Bình An không hề do dự đứng lên, chèo chiếc thuyền bình thường gần như cả hồ Thư Giản đều biết, đi tới đảo Tố Lân một chuyến, bái kiến Điền Hồ Quân.
Quản sự trong phủ áy náy trả lời đảo chủ đang bế quan, không biết khi nào mới có thể hiện thân, lão tuyệt đối không dám tự tiện quấy rầy. Nhưng nếu thật sự có việc gấp, cho dù sau đó bị trừng phạt nghiêm khắc, lão cũng sẽ giúp Trần tiên sinh đi thông báo cho đảo chủ.
Bế quan một nửa là đại kỵ trong tu hành. Trần Bình An cũng không phải chim non vừa vào giang hồ, vội vàng ngăn cản lão tu sĩ giống như muốn “khẳng khái đi chết”. Hắn cười bảo mình không có việc gấp, chỉ là mấy lần lên đảo Tố Lân, đều không thể ngồi nói chuyện một lát với Điền đảo chủ, mà trong khoảng thời gian này lại làm phiền Điền đảo chủ rất nhiều. Hôm nay nhân lúc rảnh rỗi, hắn muốn tới cảm ơn một tiếng mà thôi, không cần quấy rầy đảo chủ bế quan tu đạo.
Tu sĩ quản sự trong phủ giống như trút được gánh nặng. Trần Bình An đang định rời khỏi, đột nhiên lại cười hỏi:
– Nghe nói trong phủ có cất giữ trà cô nương của đảo Tào Nga, thỉnh thoảng sẽ lấy ra chiêu đãi khách. Ta đã tới đây rồi, có thể làm phiền thêm một chút, uống một ly trà thấm ướt cổ họng rồi lại đi hay không? Nếu sau đó Điền đảo chủ tức giận, tiền bối cứ nói là ta không ngừng dây dưa, tuyên bố không cho trà uống thì không chịu đi, mới khiến tiền bối phải tiêu tốn một phen.
Lão tu sĩ trong phủ cười đến không khép miệng được, vội vàng dẫn tiên sinh sổ sách này vào phủ, rất nhanh đã đưa tới một bình trà cô nương đảo Tào Nga, ẩn chứa thủy vận tự nhiên.
Trần Bình An uống trà, tán gẫu với lão tu sĩ rất vui vẻ.
Sau khi trần Bình An cáo từ, lão tu sĩ lại tự mình đưa tới bến thuyền đảo Tố Lân, vẫy tay từ biệt.
Trên đường về phủ, lão ta vênh váo tự đắc, đang lúc lúc trời đông giá rét nhưng mặt mày vẫn rạng rỡ. Hôm nay mặt mũi của mình đúng là lớn rồi.