Chương 110: Ngoại truyện 3 • Chợt mơ chuyện thiếu niên
- Trang Chủ
- Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót - Mộc Hề Nương
- Chương 110: Ngoại truyện 3 • Chợt mơ chuyện thiếu niên
Triệu Bạch Ngư cất hai tay vào trong tay áo, rũ mắt phục tùng giống như một du hồn bước đi trên hành lang khúc khuỷu, ánh mắt thoáng liếc sang hai bóng người đang nói chuyện trong sân nhà.
Y giương mắt nhìn lên, thấy một người tóc bạc trắng trôi lôi thôi lếch thếch, người còn lại thì mặc thường phục, lưng thẳng tắp, mái tóc cũng trắng xoá, đang nói chuyện với người lớn tuổi lôi thôi kia.
Y ến gần nghe thử, “… Không tiếc đại giới, chỉ cầu cho ngũ lang tu được kiếp sau viên mãn.” Giọng nói rất quen tai, thế là y đi vòng qua phía chính diện để thấy rõ mặt của người đang nói, chính là Triệu Bá Ung.
“Ta biết khiến cho người chết sống lại là chuyện rất hoang đường, không cầu kiếp này, chỉ cầu kiếp sau, nhất định đừng chịu hết cực khổ như cuộc đời kiếp này nữa…” Tiếng Triệu Bá Ung nhỏ dần, không giấu được sự suy sụp và đau đớn: “Là một người cha, ta thậm chí không thể hình dung nó là một sự thất bại, phạm phải một sai lầm lớn, ta cũng không thể cho chính mình một cơ hội để sửa sai. Tiên sinh, cầu xin ngài rủ lòng từ bi, ngũ lang không nên chịu những gian khổ không thuộc về thằng bé.”
Thầy tướng gì bất đắc dĩ: “Thế gian ngàn vạn người có ngàn vạn gian khổ, sao có thể tùy tiện đổi mệnh được chứ? Chuyện xảy ra hôm nay còn không quản được, sao có thể quản chuyện kiếp sau? Số mệnh đã như thế, không thể cưỡng cầu, ai cũng có nhân duyên tế hội của riêng mình, kiếp này y chịu khổ, làm sao biết kiếp sau không được hưởng phúc? Đường nhiên là ta không chắc chắn y sẽ tốt số, chỉ là… Hầy, đừng cầu xin ta nữa, nếu như thật lòng thì hãy kết thiện duyên rộng rãi, tu phúc cho người khác đi, dù không thể nói trước được, nhưng các người vẫn có thể dùng chút thân duyên yếu kém đó tăng mấy phần phúc khí cho tiểu lang quân đấy.”
Ông ta phất tay nói những lời kỳ lạ, ánh mắt hướng về nơi Triệu Bạch Ngư đang đứng.
Triệu Bạch Ngư cứ tưởng ông ta nhìn thấy mình, thầm nghi ngờ không biết đây là giấc mơ quái quỷ gì, có điều y lại nhanh chóng phát hiện ra thầy tướng già kia không nhìn thấy y.
Cơ thể lang thang vô định, đi vào sâu hơn bên trong Triệu phủ, Triệu Bạch Ngư quay đầu lại nhìn Triệu Bá Ung sương gió đầy mặt, trong lòng dâng lên một cảm xúc kì lạ, sau đó y tiếp tục đi về phía trước, lần lượt nhìn thấy Triệu Trường Phong, Triệu Trọng Cẩm và Triệu Ngọc Khanh, Triệu đại lang vẫn làm việc trong Cấm quân, lão nhị làm ở Tam ty, Triệu Ngọc Khanh tiền đồ đứt đoạn vì uống rượu gây sự, chạy vào giang hồ làm hiệp khách,
Vừa hay hôm nay Triệu Ngọc Khanh về phủ, Triệu Bạch Ngư nhìn thấy gã suýt chút nữa thì tưởng y nhận nhầm người, thiếu niên đã từng mang trong mình tính cách lỗ mãng, nay mặt mũi râu mọc đầy, vẻ mặt vừa chán nản vừa tang thương, trông gã bình tĩnh là thế nhưng vẫn nhìn ra được nỗi buồn bã.
Triệu Trọng Cẩm thì không khác với dáng vẻ mà y quen biết lắm, chỉ thêm già giặn và chín chắn hơn, lúc này hắn đang đứng trong sân một mình.
So với Triệu Ngọc Tranh, Triệu Trường Phong trông không nhếch nhác bằng, thế nhưng tuổi còn trẻ thế mà hai tóc mai đã nhuộm bạc, khiến cho người ta phải thổn thức.
Nhắc mới nhớ, bấy giờ Triệu Ngọc Khanh nhỏ tuổi nhất cũng đã ba mươi rồi, nói chi đến hai người còn lại, nhưng cả ba anh em đến tuổi này rồi mà vẫn không vợ không con, âu cũng khiến người ta ngạc nhiên.
Thân thể bị động bay tới viện nhỏ vắng vẻ mà y đã ở suốt mười chín năm trời, Triệu Bạch Ngư bất ngờ khi nhận ra nó đã được tu sửa lại và xây dựng thêm không ít thứ, giống như biến thành hai viện, cảnh vật chung quanh đẹp đẽ và yên tĩnh rất hợp lòng người, nhưng cờ chiêu hồn, đèn trường mệnh và các loại hương nến bên trong lại nhiều vô số kể, nhìn giống như chùa miếu hơn.
Đến gần một chút nữa, y thật sự nghe được tiếng gõ mõ và tiếng tụng kinh.
Triệu Bạch Ngư đứng trên hành lang, đèn lồng màu đỏ trên đỉnh đầu được thắp sáng, chập chờn trong gió đêm phát ra tiếng kẽo kẹt nhỏ xíu, cánh cửa bên cạnh mở toang, bên trong trải dài thanh đăng, hương khói không ngừng, trên bàn bày một cái bài vị, chiếc bàn bên cạnh thì có một vị phu nhân mặc quần áo giản dị đang dựa vào bàn sao chép kinh Phật, chậu đồng thiêu giấy đặt kế bên chân đang rực lửa.
“Ta nghe như vậy: Vào một thuở nọ đức Phật ở tại cung Trời Đao Lợi…”
Bà đang chép Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện, cầu phúc cho người chết.
Lúc này có ma ma đưa hai nha hoàn theo cầm giỏ xách đi tới, trong giỏ là những đồ vật để đốt cho người chết như nguyên bảo*, vương kim, tiền phúc, bọn họ cúi đầu vái trước bài vị, thông báo với Tạ thị đang sao chép kinh Phật chẳng màng tới ai rồi bước ra sân thiêu hủy những đồ vật kia.
(*) Nguyên bảo: đĩnh vàng hoặc bạc thời xưa, một đĩnh bạc thường nặng 50 lượng, một đĩnh vàng thường nặng 5 hoặc 10 lượng
Ma ma dặn hai nha hoàn đứng trong sân canh lửa, chú ý phải để mọi thứ bị đốt sạch xong rồi mới được đi, sau đó quay vào nhà cùng Tạ thị.
Hai nha hoàn kia đứng cách hành lang rất xa, nhưng Triệu Bạch Ngư vẫn có thể nghe được nội dung cuộc trò chuyện của hai nàng, một trong hai nha hoàn đó có một người là người mới tới, không hiểu chuyện trong phủ bèn nhỏ giọng hỏi thăm.
Nha hoàn còn lại nhìn trái nhìn phải, xác định không có ai ở gần mới kể cho nàng ta nghe chuyện lớn làm chấn động phủ Kinh Đô năm đó, sự thật đổi con bị vạch trần, người nhà họ Triệu nhẫn nhịn, giả vờ đầu quân vào Đông cung, để hắn kế vị không tới một năm đã tiêu diệt sạch đảng đế vương, phơi bày âm mưu hại tiên đế, giúp đỡ Lâm An quận vương đăng cơ.
Mặc dù Xương Bình và Triệu Ngọc Tranh đã phải chịu đủ báo ứng, nhưng ngũ lang thật đã chết từ lâu rồi, dù có làm nhiều hơn nữa, hối hận đến đâu đi nữa thì cũng vô ích thôi, người chết đâu thể nào sống lại được.
“Hôm nay là ngày giỗ của ngũ lang.”
Cùng lúc đó, Tạ thị ở trong nhà vô cùng thành kính mà niệm, “Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát, nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, cầu cho kiếp sau của con ta được viên mãn, sống lâu trăm tuổi, trăm tuổi không lo.”
Triệu Bạch Ngư quay phắt đầu nhìn lại, rốt cuộc cũng thấy rõ mấy chữ to “Bài vị của con trai Triệu Bạch Ngư quá cố” ở bên trên.
——Không, nói đúng hơn là bài vị của “Triệu Bạch Ngư” trong nguyên tác.
Vì sao y lại mơ giấc mơ này?
“Không phải là mơ đâu.”
Ai đang nói chuyện thế?
Triệu Bạch Ngư theo tiếng nhìn lại, thấy được một người có dáng vẻ giống y như đúc, chỉ là khí chất dịu dàng và yếu ớt hơn y, cơ thể cũng vô cùng đơn bạc, giữa lông mày chất chứa nỗi phiền muộn.
“Triệu Bạch Ngư.”
Là Triệu Bạch Ngư không được yêu thương trong nguyên tác.
“Hân hạnh được gặp.”
Ngoài dự đoán chính là “Triệu Bạch Ngư” trước mắt y không hề thê thảm như lời miêu tả trong quyển truyện kia.
“Triệu Bạch Ngư” nhìn về phía Tạ thị, ánh mắt dịu dàng, không còn oán hận cũng chẳng còn cố chấp: “Cậu nhìn thấy chưa? Bọn họ đều cảm thấy cuộc đời tôi đau khổ, thật ra trừ việc không ai thương tôi ra, thì tôi sống chẳng phải lo sinh hoạt, cũng không cần lo ăn uống gì.” Cậu ta cười, “Nhưng khi còn sống người ta đâu có nhận ra được những điều này, mà chỉ tập trung vào nỗi đau nhất thời và phóng đại nó lên vô hạn, cố chấp với thứ không có duyên phận, sống chết không chịu buông tay… Bây giờ tôi mới hiểu được hóa ra sự cố chấp của tôi cũng giống như của bọn họ mà thôi. Người chết rồi coi như xong chuyện, tôi vốn phải im hơi lặng tiếng mà tiêu tan đi, nhưng chấp niệm của bọn họ đã kéo tôi trở về, để tôi tận mắt nhìn thấy rằng, trên đời này không phải là không có ai thương yêu tôi.”
“Tôi đã cảm thấy mỹ mãn rồi.”
“Cậu đúng là Triệu Bạch Ngư nhưng không phải là tôi, chúc cậu không tai không đau, mọi sự suôn sẻ, được như mong muốn.”
“Tôi cũng mong cậu không tai không đau, được trời quan tâm, tam tinh cao chiếu, vạn sự như ý cát tường.”
Tên, gương mặt, số mệnh giống nhau nhưng lại là hai người khác nhau, một trái một phải chắp tay cúi chào lẫn nhau, chúc phúc cho nhau, sau đó nhìn nhau cười tươi, mà cũng ngay lúc này, “Keng…” một tiếng vang dậy đất, âm thanh của chuông vàng xuyên qua phủ Kinh Đô, mang theo nhịp điệu thanh thoát của tiếng gõ mõ, tiếng tụng kinh, cùng với tiếng mưa rơi, tiếng ếch kêu, tiếng nha hoàn xì xào bàn tán và tiếng mấy tiểu tử thì thầm đan xen vào nhau, dần dần cách xa, rồi một bên biến mất chẳng còn tăm hơi, một bên còn lại thì càng trở nên rõ ràng, hình ảnh biến từ vặn vẹo mơ hồ thành rõ ràng chân thật…
Triệu Bạch Ngư mở bừng mắt ra, tiếng mưa rơi, tiếng ếch kêu và tiếng thì thầm của mấy tên tiểu tư vọng vào trong phòng đểu biến mất hết, chỉ có tiếng chuông reo là vẫn còn vang dội, lại một lát sau nữa, khi nghe thấy tin bảo “Phu nhân tể tướng tới chơi”, đón lấy tiếng tiểu tư vào phòng y mới xác định mình đã thoát khỏi giấc mộng kia, về lại đời này.
Khoác thêm áo choàng, Triệu Bạch Ngư băng qua hành lang, đan mười ngón tay vào nhau giấu trong tay áo, rũ mắt suy nghĩ về “người nhà họ Triệu” và “Triệu Bạch Ngư” mà y nhìn thấy trong giấc mơ.
Không hề nghi ngờ gì nữa, đó chính là tuyến truyện của nguyên tác, kết cục HE chính là ngày đại điển sắc phong của nhân vật chính diễn ra, mà khi màn kịch vừa buông xuống, những nhân vật phụ bỗng nhiên sống dậy trở lại giống hệt như những con rối, đốt giết tàn sát, gió tanh mưa máu, vì nhân vật chính mà thêm thắt một ngoại truyện BE tràn ngập mùi máu tanh.
Y nghĩ, hóa ra người nhà họ Triệu biết được sự thật đổi con rồi vẫn yêu thương Triệu Ngọc Tranh như ngày xưa là vì có mục đích riêng, hóa ra “Triệu Bạch Ngư” trong sách không hề thảm thương đến tột cùng, không phải bị vứt bỏ mặc cho người chà đạp, cũng không phải chết không có gì hối hận, vẫn có người nhặt xương cho cậu ấy, có người đốt đèn trường mệnh cho cậu ấy suốt chục năm trời, có người vì cậu ấy mà chịu hổ thẹn nhiều năm, giày vò cuộc đời mình, có người sẵn lòng dâng ra phúc phận mười đời của mình đổi cho cậu ấy một kiếp sau tốt đẹp hơn.
Thì ra “Triệu Bạch Ngư” chỉ có thân duyên nông cạn, cho nên cũng không phải là số trời khó trái.
***
Nhà trước.
Tạ thị nghe thấy tiếng bước chân bèn nhanh chóng quay người lại, nhìn thấy Triệu Bạch Ngư liền vô thức tiến lên, nhưng đi được vài bước thì đột nhiên đứng lại, nụ cười tươi xuất hiện trên môi: “Ngũ lang.” Bà quan sát Triệu Bạch Ngư, thấy y không tai không đau, không có bất kì dấu hiệu gì là sẽ chết trẻ ở tuổi hai mươi sáu, dây thừng căn chặt trong ngực mới nới lỏng ra, không nhịn được thở phào một hơi nhẹ nhõm, nhỏ giọng nói: “Ta vừa mới đi ngang qua vương phủ, nên muốn đến đây gặp con một chút. Bây giờ gặp được rồi, cũng không có chuyện gì khác, ta không quấy rầy con nữa, ta… Bây giờ ta đi đây.”
Ngoài miệng nói đi, nhưng chân lại không động đậy, hai mắt vẫn còn dính chặt lên người Triệu Bạch Ngư.
Triệu Bạch Ngư rũ mắt, tuy rằng có giấc mơ kia làm bước đệm, nhưng y vẫn không biết phải đối mặt với Tạ thị như thế nào.
Người đã từng hận y, trách y, khắt khe với y chính là Tạ thị, thương y, hổ thẹn với y, vì y mà tụng kinh niệm phật cầu phúc trường an cũng là Tạ thị, Triệu Bạch Ngư có đau khổ trong lòng nhưng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện căm hận Tạ thị và người nhà họ Triệu.
Đã từng nói dùng cả đời này để thanh toán hết không phải là hờn dỗi, y tự mình đa tình với nhà họ Triệu, nhưng nó đã tan thành mây khói vào ngày xuất giá của mùa hè năm mười chín tuổi rồi, từ dạo ấy về sau lòng không gợn sóng, mặc dù có thương cảm vì sau này người nhà họ Triệu luôn bỏ ra công sức cố gắng chắp vá thân duyên, nhưng cuối cùng cũng không có cảm xúc gì quá mãnh liệt.
Nhưng khoảng thời gian này, hình ảnh Tạ thị dù có muốn quan tâm đến y vẫn phải cẩn thận lòng vòng lại khiến cho y lơ đễnh nhớ đến Tạ thị sao chép kinh Phật như điên, lẩm bẩm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát”, xin trời cao rủ lòng thương, hy vọng con trai nhỏ “sống lâu trăm tuổi” trong giấc mơ kia.
Suy cho cùng thì y vẫn không đành lòng.
Triệu Bạch Ngư: “Hôm trước vừa nhận đường đỏ Nghiên Băng gửi đến, thằng bé tự tay nấu đấy, tối nay ta định lấy nấu trứng gà đường đỏ, nấu hơi nhiều một chút, Tử Uyên vẫn còn ở trong cung, nấu xong để nguội lâu sẽ có mùi tanh… Người có muốn uống không?”
Có thể thấy hai mắt của Tạ thị long lanh sáng rực, khóe môi cong lên, gật đầu liên tục: “Thích chứ, mẹ… À, ta, ta thích trứng gà đường đỏ lắm!”
Mặc kệ trước kia đi, dù sao thì từ rày về sau đây chính là tình cảm chân thành của bà ấy.
Triệu Bạch Ngư cười, lấy cớ phải đi hối thúc, thật ra là vào nhà bếp tự tay nấu trứng gà đường đỏ, tài nấu nướng của y kém quá, làm cái gì cũng không xong, nhưng nấu một chén trứng gà đường đỏ dễ uống thì y làm được.
Nấu hai chén trước, sau đó mới mang lên nhà trên, chia cho Tạ thị một chén.
Tạ thị nếm thử, đầu lưỡi bị phỏng nên hai mắt cũng nóng lên, trong chớp mắt hiểu ra đây là nước chè vừa mới nấu xong.
Không phải thuận tiện, mà là cố tình xuống bếp, là mây mờ trăng tỏ sau sáu năm trời ròng rã, rốt cuộc cũng nhìn thấy được hiềm khích năm xưa tiêu tan, thân duyên có khả năng nối lại.
Cảnh tượng con trai nhỏ tự thân xuống bếp, ngồi chung một bàn, im lặng uống nước đường, chỉ còn lại tiếng lách cách khi muỗng chạm vào thành chén là niềm hi vọng mà Tạ thị mong mỏi đã lâu rồi nhưng có nghĩ bà cũng không dám nghĩ đến, những tưởng bà gặp được con rồi sẽ lại chảy nước mắt, sẽ khó nhịn nỗi xúc động, nhưng sự thật thì tỏ ra bình tĩnh khéo léo, giống như một người mẹ và con trai bình thường, ngồi lại nói những chuyện bình thường vào một ngày rất bình thường trên đời này vậy.
Uống một chén trứng gà đường đỏ như nhấm nháp sơn hào hải vị, tốn hết tâm tư kéo dài thời gian nhưng rất nhanh đã thấy đáy, Tạ thị hơi bối rối, không biết nên dùng cớ gì để tiếp tục ở lại vương phủ.
Triệu Bạch Ngư nói những chuyện thường ngày một cách rất tự nhiên, Tạ thị vội vàng bắt lấy cơ hội tiếp lời, trò chuyện câu được câu chăng nhưng cũng đâu ra đấy, có lẽ là dấu hiệu phá băng.
Nửa canh giờ nhanh chóng trôi qua, tất nhiên Tạ thị đã cảm thấy thỏa mãn rồi, cũng không thể lấn lướt tiếp tục ở lại đây nữa, vô duyên vô cớ lại làm người ta phát ghét nữa.
Bà đứng dậy chào tạm biệt.
Triệu Bạch Ngư tiễn bà đi, đi qua sân nhà, hành lang rồi đến bức tường phù điêu, đứng cạnh cổng đưa mắt nhìn Tạ thị lên xe ngựa, bỗng nhiên cất giọng: “Mẫu đơn trong phủ nở thế nào rồi ạ?”
Tạ thị kinh ngạc mừng vui nâng mắt lên: “Trăm hoa tươi đẹp, kiều diễm ướt át.”
Triệu Bạch Ngư: “Tổ chức tiệc vào cuối tháng Ba sao?”
Tạ thị: “Hai mươi lăm tháng Ba.”
Triệu Bạch Ngư: “Ta có thể đến chứ?”
Chóp mũi Tạ thị chua xót, nhưng môi lại cười tươi như hoa: “Xỏ ngược giày nghênh đón*.”
(*) Nguyên văn là Đảo tỉ nghênh chi – 倒屣迎之: Xỏ giày ngược ra nghênh đón. Vì nhiệt tình, vội vàng ra nghênh tiếp khách mà đi giày ngược
Triệu Bạch Ngư đưa tay ra, ống tay áo dài che khuất gương mặt, thoáng cúi đầu chào tiễn biệt.
Tạ thị bước vào xe ngựa, bánh xe lăn nhanh đi xa, bỗng nhiên bà dùng tay áo che mặt, vui mừng phát khóc.
==
Buổi chiều, Hoắc Kinh Đường trở về từ trong cung.
Từ khi hắn từ chối vị trí Thái tử, được nhận lại lấy thân phận Đại hoàng tử, quan hệ cha con với Nguyên Thú đế đã hòa dịu đến trạng thái thuần túy tốt đẹp nhất.
Nhưng Nguyên Thú đế luôn thích tối đa hóa lợi ích của mọi người và mọi thứ, nói trắng ra là không muốn thấy Hoắc Kinh Đường chơi bời lêu lổng ăn nằm đàn đúm suốt ngày, cho nên gọi hắn vào cung dạy võ công, bài binh bố trận, hành quân chiến tranh,… cho các hoàng tử, chiến thần Tây Bắc đích thân dạy học đương nhiên là thầy giỏi dạy trò hay rồi.
Hơn nữa nhờ vậy mà Hoắc Kinh Đường không chỉ là đại ca của các hoàng tử, hắn còn trở thành thầy giáo, có hai thân phận này bảo vệ, ngày sau tân đế đăng cơ cũng phải đối xử cung kính với bọn họ, không được làm những việc như qua cầu rút ván.
Có điều nhìn qua quá trình trước mắt, Hoắc Kinh Đường càng có khả năng sẽ trở thành nỗi ám ảnh lúc nhỏ của các hoàng tử hơn.
Trong phòng tắm, hơi nước mờ mịt, Hoắc Kinh Đường đang ngâm mình dưới nước nóng, trong tầm mắt, Triệu Bạch Ngư chỉ có thể nhìn thấy được tấm lưng dày rộng và cánh tay cơ bắp cường tráng của hắn, tóc dài búi lên, hai cánh tay sải dài gác lên thành bồn tắm, trên cổ tay quấn chuỗi vòng Phật.
“Hôm nay trời mưa đến chiều tối, không thể tổ chức các hoạt động ngoài trời, lẽ ra phải về sớm chứ, sao chàng về muộn thế?”
“Sáng nay Thập tam với Thập ngũ đứa nào đứa nấy giở trò nhỏ nhen, ta phạt chúng tiếp tục luyện tập trong mưa, đợi mệt sắp ngất rồi mời thả cho về.”
Tuy nói lúc huấn luyện Hoắc Kinh Đường vô cùng nghiêm khắc, nhưng thật ra rất ít khi trừng phạt, với cái tính lười biếng của hắn thì chắc chắn phải chẳng thèm quan tâm mấy chuyện này mới đúng, nếu không phải tại Nguyên Thú đế thường xuyên lệnh cho người đến theo dõi, nói không chừng vừa đến giờ Mão là hắn xách mông chạy về rồi.
Có thể khiến cho hắn chủ động đưa ra hình phạt, nhất định là đối phương đã phạm vào giới hạn của hắn.
“Sao vậy?”
“Hoàng tử tranh giành, đùa giỡn bày trò tâm cơ là chuyện bình thường, nhưng tuổi còn nhỏ đã không từ thủ đoạn mà nhảy vào chỗ chết, nếu không nhanh chóng uốn nắn cho thẳng lại thì khó tránh khỏi lệch lạc thành kẻ tàn bạo bất nhân. Đám nhóc con này, không cầu bọn chúng ngày sau có thể trở thành minh quân thịnh thế, làm một quân vương có lòng nhân nghĩa, là một tấm gương tốt, biết thương cảm cho nỗi khổ của người khác là được rồi.”
Nhắc đến đây, im lặng một lát, Hoắc Kinh Đường không chịu nổi lớp da giả vờ lạnh lùng bình tĩnh nữa, trầm giọng hừ một tiếng khinh thường, vô cùng không vui nói: “Phiền!”
Hoắc Kinh Đường xoay người, thò tay về phía Triệu Bạch Ngư, làm dáng nói: “Tiểu lang quân mau tới dỗ dành tinh thần và thể xác mệt mỏi của ta đi.”
Triệu Bạch Ngư bước tới, tát một cái vào lưng hắn, nói chuyện như ông già: “Làm người đứng đắn đi.” Nhưng vẫn mặc cho hắn nắm tay, y hơi cúi đầu xuống, hơi nước mờ mịt bao phủ trước mắt, miệng cũng đột nhiên bị ngăn lại, rồi bỗng trời đất quay cuồng, bị kéo thẳng vào trong bồn tắm, bọt nước tung tóe khắp nơi, quần áo ướt dần, trôi lềnh bềnh trên mặt nước.
Mặt nước sóng sánh, Triệu Bạch Ngư nheo mắt lại, trâm ngọc rơi ra, búi tóc vốn lỏng lẻo chớp mắt rơi đầy trên vai, đuôi tóc ướt đẫm, cũng trôi nổi giống như áo ngoài.
Hoắc Kinh Đường khẽ cười, “Buổi chiều tiểu lang đã gặp Triệu phu nhân à?”
Triệu Bạch Ngư dùng giọng mũi ừm một tiếng trả lời, mười ngón chân co quắp lại.
Bàn tay của Hoắc Kinh Đường cứ quanh quẩn bên eo Triệu Bạch Ngư, nghe vậy bèn tiếp tục hỏi như đang trò chuyện: “Tiểu lang định đến dự tiệc sao?”
Triệu Bạch Ngư cau mày, tay trái lướt qua vai Hoắc Kinh Đường nắm chặt lấy thành bồn tắm, đầu ngón tay trắng trẻo, thấp giọng đáp: “Mời mấy năm nay rồi, từ chối nữa thì không phải phép.”
Hoắc Kinh Đường: “Là vì bỏ qua tất cả mọi hiềm khích lúc trước hay là chỉ làm theo lời yêu cầu thôi?”
Triệu Bạch Ngư mím môi không muốn nói, nhưng Hoắc Kinh Đường thấy y không nói chuyện bèn lại gần hôn lên khóe môi y, nhưng những hành động mang ý trêu đùa tựa như đang chọc ghẹo mèo con liên tục ập đến, thỉnh thoảng khiến người ta cảm giác như đang bị giày vò.
“Phiền quá!” Triệu Bạch Ngư đột nhiên nổi nóng, nắm thay thành quyền nện vào vai Hoắc Kinh Đường, thuận thế đứng dậy, chuẩn bị đá cái tên phiền phức chết tiệt này ra rồi bỏ đi, “Chàng tự chơi đi… A!”
Hoắc Kinh Đường siết chặt eo y kéo trở về, để y lưng tựa vào bồn tắm, đôi mắt Bồ Tát màu ngọc lưu ly chứa đựng vẻ lười nhác nhưng hung hăng, giống hệt như đọa Phật, mê hoặc Triệu Bạch Ngư đang tức giận trở nên mềm lòng, áp sát lại hôn lên cằm và trái cổ của hắn.
Thoáng chốc bọt nước văng tứ tung, sương khói lượn lờ, đèn dầu xua tan bóng tối, người làm mang công cụ chà rửa phòng tắm đến trước cửa rồi lại đi, mãi đến tận khi trăng tròn treo cao, Hoắc Kinh Đường ôm Triệu Bạch Ngư đi ra, bọn họ mới có thể vào thu dọn phòng tắm hỗn loạn.
Buổi chiều đã ngủ hai canh giờ vốn phải tỉnh táo, nào ngờ đến tối lại náo loạn một trận không có giới hạn, thể lực bị vắt sạch, vừa nằm lên giường đã ngủ say.
Hoắc Kinh Đường khoác áo lót vào, ôm Triệu Bạch Ngư ngủ.
Đêm xuân hơi lạnh, mọi âm thanh đều như ngừng lại, trừ tiếng côn trùng nhỏ kêu vang, ánh nến lập lòe hai lần đã ắt, giấc mộng bí mật ngọt ngào ghé thăm.
…
Cũng vào một đêm mưa mới dứt, côn trùng ở nơi rừng sâu cây dày kêu lên không ngừng, Triệu Bạch Ngư mười sáu tuổi vừa trở thành tú tài, lòng mang chí lớn, chất chứa đầy hoài bão và triển vọng vì dân lập mệnh, cũng tài hoa hơn người, tương lai rộng mở.
Nếu như không có chuyện gì ngoài ý muốn, tiếp theo chính là thi Hương, thi Hội, cuối cùng là thi Đình giành lấy công danh.
Ân sư khen ngợi y có tài trạng nguyên, nhưng y lại không quan trọng trạng nguyên hay bảng nhãn, có thể làm quan là được rồi.
Triệu Bạch Ngư lảo đảo chạy theo thời đại này, tuy rằng vấp ngã đến nỗi mặt mũi bầm dập, y trà trộn vào đủ thứ hạng người để nhìn nổi khổ của tầng lớp dưới cùng, thế nhưng chưa bước vào quan trường, chưa chính thức đối mặt với bóng tối khiến cho con người của thời đại này rơi vào tuyệt vọng nhất, chưa nếm trải cảm giác dốc hết toàn lực để đầu rơi máu chảy rồi lại bất lực, lúc bấy giờ vẫn còn khá ngây thơ.
Y cũng giống như các học sinh trong thiên hạ này, học hành chỉ để làm quan.
Có người làm quan vì tiền tài, có người làm quan để kiến công lập nghiệp, để lưu danh sử sách, nhưng cũng có người làm quan chỉ vì hai chữ “vì dân”.
Triệu Bạch Ngư cho rằng tu thân cũng đơn giản giống như tu quan, không cầu tiền tài, không mưu quyền, chỉ nhẹ nhàng như hai chữ vì dân.
Nếu như có cơ hội tiến xa vạn dặm, thì sẽ từ vì dân thành lo nước, suy cho cùng thì vẫn chỉ là để mưu cầu hạnh phúc và lợi ích cho dân mà thôi.
Từ nhỏ trong y đã chứa dấu ấn của một thời đại bình đẳng, cho nên làm mọi chuyện đều chọn cách tử tế nhất, chỉ không ngờ người nhà họ Triệu vì một suy nghĩ của Triệu Ngọc Tranh mà yêu cầu y từ bỏ tham gia khoa khảo.
Trong lòng Triệu Bạch Ngư cảm thấy hoang đường, hiếm khi chọn từ kiên quyết từ chối, vậy mà chỉ ngủ một giấc thôi, tỉnh dậy y đã phát hiện mình bị nhốt trong một căn phòng lạ lẫm, cửa sổ cũng khóa chặt, trong góc có lương khô đủ sống qua mười ngày nửa tháng.
Hôm nay là ngày vào trường thi.
Ngoài cửa đột nhiên có tiếng bước chân vang lên, dường như là vọng vào từ bên ngoài.
Triệu Bạch Ngư nhòm ra khe cửa, trông thấy một bóng lưng hơi quen thuộc, người đó đi đến cửa viện, rồi sau đó giọng nói tò mò của Triệu Ngọc Tranh vang lên, “Tam ca, sao huynh lại ở đây?”
Triệu tam lang nói mấy câu lừa gạt cho qua chuyện, Triệu Ngọc Tranh còn định hỏi tiếp đã nghe một giọng nói khá lạnh lùng khác vang lên: “Nó chỉ là một thằng nhóc ranh thôi, trừ bày trò xấu ra thì có thể làm nên chuyện đứng đắn gì chứ? Đừng để bị nó dạy hư, đệ mới vừa khỏi bệnh, theo nhị ca đến sân xem cưỡi ngựa đánh bóng thôi, phải chỉ bảo cho nhị ca đấy.”
Quả nhiên sự chú ý của Triệu Ngọc Tranh đã bị dời đi, tung tăng chạy xa.
Chỉ nghe Triệu nhị lang quát một câu không đau không ngứa: “Vừa phải thôi.”
Triệu tam lang rầm rì hai câu rồi chạy theo sau, viện nhỏ hoàn toàn trở nên yên tĩnh, Triệu Bạch Ngư bèn nghĩ, thế thì cũng không cần phải nhốt y mười ngày nửa tháng chứ, chỉ cần bỏ lỡ canh giờ vào trường thi hôm nay là đã tương đương với việc y tự động từ bỏ ba năm khoa khảo sau này rồi.
“Hầy.”
Triệu Bạch Ngư ôm cánh tay, chôn mặt vào khuỷu tay, bị nhốt trong tiểu viện lạ lẫm suốt hai ngày một đêm, cuối cùng đập bể cửa sổ chạy ra ngoài, nhìn lên bầu trời không trăng không sao và rừng sâu vươn tay không thấy nổi năm ngón, bỗng nhiên nện nắm tay vào lòng bàn tay chán nản nói: “Sớm biết như vậy thì mấy ngày trước không nên từ chối bùa cầu phúc bình an mà cao tăng chùa Bảo Hoa chào hàng mới đúng!”
Tiếc rằng khi đó y không thể mua vì giá đắt quá, từ chối đi cửa sau có thần phật che chở.
Bây giờ có hối hận cũng đâu thể làm được gì, thần phật đã đóng cửa sau lại rồi, chỉ chừa mỗi bóng lưng vô tình mà thôi.
So với rừng rậm tràn đầy bóng tối với vô số loài rắn, côn trùng, chuột và kiến, tất nhiên là tiểu viện sau lưng an toàn hơn, chỉ cần ngồi bên trong đợi đến sáng là được, nhưng đối với Triệu Bạch Ngư mà nói, y thà xông vào khu rừng đầy rẫy nhưng hiểm nguy, có khả năng sẽ phải chết oan chết uổng còn hơn là quay trở lại gian phòng bí bách đó.
Đó là khi sự nhiệt tình mà y dành cho người nhà họ Triệu bắt đầu trở nên nguội lạnh.
Lần mò trong bóng tối đi về phía trước, trên cơ thể đầy vết thương bầm dập tê tái, nỗi đau và sợ hãi như muốn xé rách linh hồn và thân thể, y lẻ loi bước đi trong khu rừng tối nơi chẳng có chút ánh sáng, sự lạc lõng khi sống trong một thế giới khác luôn được kiềm nén, nỗi sợ hãi, cô độc, khó khăn, đau đớn và tủi thân trong chốc lát cùng nhau bùng nổ, Triệu Bạch Ngư đột nhiên chạy như điên, trong đầu trống rỗng, sống chết toàn bộ dựa vào ý trời.
Rồi y vấp phải rễ cây trượt chân xuống sườn núi, lăn vào con đường nhỏ bên cạnh, tưởng rằng đã ngã chết ở một nơi không ai hay biết, nhưng rồi y nghe được ở cuối con đường nhỏ đó có tiếng vó ngựa đang vọng từ xa tới gần, cũng chẳng biết vì sao, dưới sự hạn chế của bóng tới và ánh mắt mơ hồ, Triệu Bạch Ngư vẫn nhìn thấy được chú ngựa phi nhanh đến cùng với tướng mạo vô cùng đẹp của chàng trai trên lưng ngựa, hùng ưng bay lượn trên đầu rồi hạ thấp độ cao xuống, tay trái của hắn cầm trường cung, túi da treo trên lưng chứa đầy mũi tên đuôi lông trắng vô cùng thu hút sự chú ý của người khác.
Trước khi mất sạch ý thức, Triệu Bạch Ngư nghĩ thầm, hóa ra là lang quân cưỡi ngựa bắn cung vào ban đêm, không biết có phải người tòng quân hay không nữa.
Nhìn thấy đuôi tóc dài của hắn bay lên, khí thế hăm hở, nếu không mang Ngô câu chẳng phải sẽ đáng tiếc lắm sao?
Lang quân trên lưng ngựa liếc nhìn sang, lạnh lùng nghiêm khắc nhưng hờ hững, có điều chỉ trong nháy mắt lại bay bổng rời đi, tiếng vó ngựa đi xa dần, Triệu Bạch Ngư lại nghĩ bụng người ta không phát hiện ra mình, hay là nhìn thấy nhưng không muốn dây vào việc của người khác?
Bỏ đi, có hơi đau đấy, ngủ một chút trước đã.
Ý thức của Triệu Bạch Ngư đã gần đến mức sụp đổ rồi, vó ngựa lại rền vang, móng trước nhô cao, một chiếc đèn cầy chiếu sáng mặt của y, rồi sau đó y được bó lại trong quần áo và chăn ấm, ngửi thấy mùi hương đốt trước Phật êm dịu nhàn nhạt khiến cho tinh thần người ta an yên.
Giữa lúc nửa tỉnh nửa mê, Triệu Bạch Ngư líu ríu nói: “… Tướng quân đêm bắn tên, sớm mai tìm dấu vết.” Vậy cho nên ban đầu y mới lập tức suy đoán nếu như đó không phải là một vị tướng quân còn trẻ đã thành danh thì thật là tiếc cho phong thái ấy quá.
Sau khi tỉnh lại, Triệu Bạch Ngư đã thấy mình ở y quán rồi, y không thể tra ra được người cứu mình là ai, đến nối dáng vẻ của đối phương cao thấp thế nào y cũng không nhớ rõ, chỉ có khuôn mặt khôi ngô đẹp đẽ là vẫn loáng thoáng trong đầu, đương nhiên là y sẽ loại trừ Lâm An quận vương tàn bạo có tướng mạo xấu xí kia trước.
Dần dà, kí ức kia trở nên mơ hồ, thậm chí đôi khi y còn cho rằng đó chỉ là một giấc mộng.
Cũng có thể người kia là yêu quái trong núi, tình cờ rũ lòng thương làm việc tốt cứu y mà thôi.
…
Đột nhiên choàng tỉnh khỏi cơn mơ, Triệu Bạch Ngư mở mắt ra, khuôn mặt say ngủ của Hoắc Kinh Đường lọt vào tầm mắt, y ngắm nhìn thật kĩ, nếu như hắn trẻ ra mười tuổi, hình dáng và ngũ quan đều sẽ nhu hòa hơn, màu da cũng sẽ trắng hơn một chút, thật sự là rất giống với yêu ma quỷ quái mà y gặp được trong núi năm mười sáu tuổi.
Đúng ngay lúc này, ngoài phòng có tiếng chim ưng vang lên, giống hệt như cách hùng ưng hạ mình bay quanh bầu trời đêm ấy.
Bỗng nhiên Triệu Bạch Ngư nở nụ cười.
Hóa ra mỗi lần ta bước đến lằn ranh của sự sống và cái chết, chàng đều là người cứu ta.
==
Cơ mà thời Cá 16 chủi thì anh Hoắc đã bị trúng cổ mấy năm òi, chắc lúc ra ngoài là lúc bệnh chưa phát nên mặt mũi vẫn ra gì đấy, nhưng bà con người ta ai cũng đồn anh ta xấu như qỉ xứ đó, bảo sao em bé loại anh ta ra khỏi diện tình nghi đầu tiên không cần phải tốn công suy nghĩ và thà tin người cứu ẻm là con yêu quái núi đẹp zai =)))))))))))) đáng lẽ câu này t phải nói từ chương hai mốt rồi mới đúng: chúc mừng em, người nhà em đã gả em cho một người sắp chếc vì 185 tỉ – chính là anh, Ngôn Nhất Đường, người chồng đỏn mệnh của em 😎🫶🏻