Chương 36: Nhân duyên kịp đến (1)
- Trang Chủ
- Cung Hoa - Long Tử Trùng Sinh Chi Sủng Phi - Đề Nha
- Chương 36: Nhân duyên kịp đến (1)
Mấy tháng qua có thêm một sự kiện, Ngô tướng quân cầu thân Trúc nữ quan. Trúc nữ quan chưa nhận lời, cả ngày ở lỳ Phượng Nghênh cung không ra ngoài.
Ngô tướng quân có hàm phẩm không nhỏ, tuy tuổi có hơi lớn nhưng vẫn là bậc anh tài. Sau khi ông thăng quan tiến chức, có không ít nhà đến muốn cùng ông định thân. Dạo trước Ngô tướng quân bị thương trong lúc tập trận, Triều Thanh Diên lấy cớ Ngô Hành là tài tướng trung thần, liền phái Trúc nữ quan đến giúp ông chữa trị.
Ngô tướng quân tính khí cộc cằn thô lỗ, nhưng đối với Trúc nữ quan hết mực dịu dàng, lúc nói chuyện còn cố ý hạ giọng nhẹ nhàng để không làm bà sợ hãi. Ai cũng nhìn ra được ông có ý với Trúc nữ quan.
Trúc nữ quan cố tình tránh mặt, thở dài buông ra mấy câu trách thân.
“Ta là nữ nhân nửa đời dang dở, hắn đang có công danh rực rỡ, không nên bị ta liên lụy.”
Ngô Hành không chịu bỏ cuộc, xin hoàng hậu được làm cấm vệ quân bên ngoài Phượng Nghênh Cung. Mỗi ngày nhìn thấy Ngô Hành, A Mãn Nương ngượng đến mức chỉ biết đi đường vòng. Nhưng trốn tránh mãi cũng không phải là cách, hoàng hậu nương nương đành phải ra tay.
Mồng bốn tháng sau, A Mãn sẽ về thôn Kinh Giác cúng tế nữ nhi. Vì sau chiến loạn, thôn Kinh Giác bị ảnh hưởng rất nhiều nên hoàng hậu nương nương ra lệnh cho Ngô tướng quân hộ tống A Mãn nương hồi hương.
Ngô tướng quân biết hoàng thượng và hoàng hậu muốn tác hợp mối nhân duyên này, vội dập đầu tạ ơn. Trên đường xuất kinh, Ngô tướng quân luôn tìm cơ hội trò chuyện nhưng luôn bị khước từ.
A Mãn Nương đành bộc bạch:”Ta không muốn liên lụy tướng quân. Ngài công danh rực rỡ, nên lấy một thê tử trẻ trung phù hợp, giúp ngài quản lý nhà cửa sinh con đẻ cái. Hà cớ phải đâm đầu vào người nửa đời dang dở như ta?”
Ngô tướng quân sốt ruột đến đỏ mắt.
“Nàng không dang dở, là ta đến trễ để thích nàng.”
“…”
“A Mãn, là nàng để ý đến danh phận. Hay là không cần ta? Nàng đừng có không cần ta có được không?”
A Mãn Nương ngẩng nhìn ông ấy, bỗng chốc đỏ mặt. Hai người cứ thế, ta chạy người đuổi theo, cho đến khi về thôn Kinh Giác. Thôn Kinh Giác thay đổi rất nhiều, A Mãn Nương khó khăn lắm mới tìm được đường đến mộ phần của nữ nhi.
Vừa đi đến, nhìn thấy có người cầm xẻng liên tục xúc phá mộ phần. A Mãn Nương cả người như phát điên nhào đến đẩy người ta đi. Người đang xúc phá cũng chỉ nhận tiền làm việc, hắn nói:”Ta không biết hai người là ai, là Tùng đại gia kêu bọn ta đến phá ngôi mộ này. Nói người trong mộ là nữ nhi của ông ta, ông ta muốn đem nó đi.”
Tùng gia là nhà chồng trước của A Mãn Nương.
A Mãn Nương lạnh người, nhìn ngôi mộ của nữ nhi mình bị đào xới bừa bãi, tâm can tan nát từng mảnh. Thông qua tìm hiểu mới biết, Tùng gia mấy năm nay làm ăn không tồi, trong nhà lúc này đã có của cải hơn người ta. Sau khi chiến loạn kết thúc, Tùng Tiến (chồng cũ của A Mãn Nương) tìm được cơ hội phát tài, đi theo người ta làm ăn kiếm sống.
Mấy ngày trước một vị trưởng bối của Tùng gia qua đời, thầy pháp phán rằng phải chôn ông ta ở thôn Kim Giác thì Tùng gia con cháu mới hưng thịnh. Thôn Kinh Giác không dễ mua đất, Tùng Tiến không muốn tốn nhiều tiền, trùng hợp biết được mộ phần của nữ nhi đã khuất cũng được chôn ở đó.
Ông ta liền sai người đến đào mộ lên, còn nói với người đào mộ đó là nữ nhi của Tùng gia, mộ phần của nó tùy tiện đào lên rồi chôn một góc nào là được.
A Mãn Nương trở về, việc đào mộ bị hủy bỏ, kinh động đến nhà họ Tùng. Tùng Tiến chẳng mấy chốc liền xuất hiện, lúc này mộ phần của Tùng Tiểu Đào (nữ nhi A Mãn Nương) đã được Ngô Hành cho người tu sửa xong.
Sáu năm sau gặp lại, Tùng Tiến cẩn thận quan sát A Mãn Nương. Nghe ngóng từ người dân xung quanh, ông chỉ biết A Mãn Nương được một phú hộ trong kinh thành mời đến chữa bệnh, bấy lâu không trở về làm ông tưởng lầm là bà đã bỏ xứ mà đi.
“Trúc Mãn, nó chết đã nhiều năm rồi.”
Bàn tay đốt tiền vàng mã của A Mãn Nương dừng lại, khói bụi phảng phất trên gương mặt bà, lộ ra tia lạnh lẽo bất tận. Ông ta nhắc lại nỗi đau của bà, bà liền không nhịn nữa.
“Nữ nhi của ta vì sao mà chết, người làm phụ thân như ông có muốn ta nhắc lại không?”
Tùng Tiến mặt dày đáp:”Đền ơn phụ mẫu nuôi dưỡng là trách nhiệm của nó. Đuối nước chết sớm thì trách số nó không may, bà muốn nhắc lại điều gì?”
A Mãn Nương đứng lên, phủi lớp bụi trên làn áo của mình.
“Sinh ra trong Tùng gia là bất hạnh của nó, nó biết ta vất vả, vẫn luôn không khóc quấy đua đòi. Nó chỉ mới tám tuổi, mẫu thân tốt của ông đã bán nó để kiếm tiền. Ta làm trâu làm ngựa cho Tùng gia, chỉ mong các người đừng đối xử với nữ nhi ta quá bạc. Là ta hy vọng quá nhiều, là ta không bảo vệ được nó. Có trách thì trách bản thân ta, chọn lầm cha cho Tiểu Đào, chọn lầm trượng phu cho bản thân. Còn ông, hằng đêm nằm xuống không sợ Tiểu Đào sẽ đến tìm ông sao?”
Tùng Tiến kinh ngạc, nói lắp bắp không thành lời:”Bà…bà nói hồ đồ cái gì?”
A Mãn Nương:”Tùng Tiến, ông có biết lúc ta tìm được Tiểu Đào dưới sông. Trông con bé thê thảm đến mức nào không?”
“Cả người con bé trương phìn, bốc lên mùi hôi thối, ta đã ôm con bé lên bằng chính đôi tay của mình. Con bé bị ngâm dưới nước ba ngày ba đêm, lúc con bé chết vẫn nắm chặt chiếc giày rách mà ông đã tặng cho nó trước khi bán nó đi!”
Tùng Tiến gầm lên, muốn giơ tay lên tát bà:”Câm miệng!”
Ngô Hành bước tới, lập tức rút kiếm chắn trước mặt A Mãn Nương.
Tùng Tiến mới để ý rằng bên cạnh bà có rất nhiều người, còn mặc cả quân phục. Nhất thời hoảng sở, ông ấy lắp bắp:”Ngươi, ngươi là ai?”
Nhìn thấy dáng vẻ bảo vệ của Ngô Hành, Tùng Tiến bình tĩnh lại, không sợ mà mỉa mai.
“Đúng là đàn bà. Vừa đó đã tìm được chỗ dựa dẫm!”
A Mãn Nương không muốn đôi co với ông ta:”Mộ phần của con gái ta, là do ta dùng tiền mua về. Tôi và ông hòa ly đến nay đã được sáu năm, Tùng Tiến, ông và ta không còn liên quan đến nhau.”
“Không còn liên quan?” Tùng Tiến nhổ một bãi nước bọt:”Nó là người của Tùng gia, nó chết thì vẫn là ma của Tùng gia. Nhường mộ phần cho trưởng bối, có chỗ nào không hợp? Bà có giỏi thì cứ đi kiện, kiện lên huyện thành cũng không ai giúp bà!”
Có gan nói như thế, Tùng Tiến rõ ràng đã chuẩn bị hết rồi mới đến đây.
“Hôm nay ta phải đào cho được phần mộ này! Người đâu, lên!”
Bọn họ xông lên, người của Ngô Hành lập tức rút kiếm đứng quanh mộ của Tùng Tiểu Đào. Người của Ngô Hành đều là quan binh từng chinh chiến, sao có thể bị mấy tên cầm cây cầm gậy hù dọa. Hai bên đánh nhau, chẳng mấy chốc đã bị thuộc hạ của Ngô Hành đánh đến sứt đầu mẻ trán.
Ngô Hành nghe chuyện của A Mãn Nương, lửa giận bừng bừng thay bà, trong lúc đánh nhau tiện tay đấm thêm mấy cái, đấm cho Tùng Tiến nằm bẹp dưới sàn, mặt sưng như đầu heo.
Cho đến khi A Mãn Nương kêu dừng lại, Ngô Hành mới buông tay.
Tùng gia biết chuyện, Tùng lão phu nhân đến báo quan.
Quan phủ không xử lý chuyện này, kéo dài đến tận mấy ngày sau. Tùng lão phu nhân vừa khóc vừa nháo ngoài cửa liền bị quan phủ đưa vào bên trong, thì ra tri huyện mấy năm gần đây là cháu trai bên mẹ của bà ấy.
Lão phu nhân cáo trạng, tri huyện đại nhân mới thấp giọng cảnh cáo bà.
“Cô cô, cô đừng hồ đồ nữa. Thân phận tức phụ trước của cô hiện giờ không đơn giản, chuyện này cô cho qua đi.”
Tùng lão phu nhân kinh ngạc:”Có gì không đơn giản? Nó chẳng phải chỉ là một thầy thuốc thôi sao? Lên kinh thành chữa bệnh cho một nhà giàu nên được trọng dụng, chắc chắn mấy tên quan binh đi theo nó là đám giả mạo! Hạng nữ nhân đê tiện đó làm sao bằng Tùng gia chúng ta chứ?”
Tri huyện đại nhân vội bịt miệng bà lại, cuối cùng đành phải tiết lộ.
“Nhà giàu trong kinh thành mà người ta đồn đại chính là đương kim hoàng thượng! Cô cô, Trúc thị hiện tại là hồng nhân của hoàng hậu nương nương, người ta đã là nhị phẩm nữ quan trong cung rồi. Một tri huyện nhỏ bé như ta, thực sự không dám đắc tội.”
Tùng lão phu nhân há hốc mồm, lảo đảo đứng không vững.
“Vậy…vậy mấy quan binh đi theo nó…”
Tri huyện đại nhân:”Là người của hoàng thượng và hoàng hậu nương nương. Cô cô, cô đừng ép ta nữa. Ta đến từng tuổi này mới ngồi lên được chức tri huyện, chuyện của biểu huynh ta không giúp được. Cô cô đừng làm khó ta.”
Cái gì gọi là “một người làm quan, cả họ được nhờ”, tri huyện đại nhân cũng rất đau não.
Lão phu nhân nghe xong, ngất xỉu tại chỗ.
Biến hóa khôn lường, không ai kịp trở tay.
Lão phu nhân xỉu xong tỉnh lại, tính toán một hồi liền đi đến chỗ của A Mãn Nương.
A Mãn Nương sau khi làm nữ quan, bổng lộc khấm khá hơn lúc làm đại phu nhiều. Bà mua một tứ hợp viện, làm nơi thờ cúng phụ mẫu và Tùng Tiểu Đào. Tùng lão phu nhân tìm được Trúc gia rất nhanh, quan binh canh cửa nhìn thấy bà liền không cho vào.
Tùng lão phu nhân là một thôn phụ thô bỉ, miệng lưỡi lại chua ngoa. Không cho bà vào thì bà khóc la om sòm, khiến cho hạ nhân bên trong phải bẩm báo lại.
A Mãn Nương lần này không chỉ về thăm nhà, còn phụng mệnh của Triều Thanh Diên tìm mấy loại dược liệu quý hiếm ở vùng cao đem vào cung. Ngô Hành bên cạnh phụ giúp bà giã dược liệu, Oảnh Nhi chạy đến:”A Mãn Nương, bên ngoài có một lão thái thái la ó lớn tiếng muốn gặp ngài.”
Oảnh Nhi là cung nhân mà hoàng hậu ban cho bà, A Mãn Nương liền coi nàng ấy như con gái mà dạy dỗ.
Tùng lão phu nhân kêu ồn ào bên ngoài. A Mãn Nương nghe tiếng liền biết là ai, người từng mắng chửi bà suốt mấy năm làm dâu đây mà.
Đợi Tùng lão phu quân kêu đến mệt mỏi, A Mãn Nương mới nói:”Oảnh Nhi, con đến đây. Giúp ta giã nốt số thuốc này trước, rồi pha một bình trà đem đến phòng khách.”
“Vâng.”
Ngô Hành kéo lấy tay áo bà:”A Mãn, ta đi cùng nàng.”
“Chàng là nam nhân, không tiện.”
Sau chuyện Ngô Hành bảo vệ bà ở trước mặt Tùng Tiến, A Mãn Nương đã mở lòng với ông nhiều hơn. Ngô Hành rất nghe lời, đợi A Mãn Nương đi khuất mới chậm rãi theo sau. Oảnh Nhi nhỏ giọng mách:”Ngô đại nhân, phòng khách có một tấm bình phòng bên phải rất kín kẽ.”
Ngô Hành gật đầu, âm thầm tạ ơn Oảnh Nhi.
Đợi ông đi, Oảnh Nhi thở dài.
Cả hoàng cung đều tác hợp hai người, lần này Ngô tướng quân không thể cưới được A Mãn Nương thì đúng là có lỗi với bọn họ.